“Nào,” bà Joe vừa nói vừa hối hả bỏ áo khoác ra đầy phấn khích,
“nếu tối nay thằng nhóc này không cảm thấy biết ơn thì sẽ không bao giờ nó
cảm thấy thế nữa!”
Tôi tỏ vẻ biết ơn hết mức một cậu nhóc có thể tỏ ra khi hoàn toàn
chẳng biết tại sao mình lại buộc phải thể hiện ra cảm xúc này.
“Chỉ hy vọng,” chị tôi nói, “nó sẽ không bị nuông phát hư. Nhưng tôi
lo lắm.”
“Bà ấy không phải kiểu người đó đâu, bà mẹ,” ông Pumblechook
nói. “Bà ấy biết tốt nhất cần làm gì.”
Bà ấy? Tôi nhìn Joe, vừa mấp máy môi vừa nhướng mày, “Bà ấy?”
Joe nhìn lại tôi, cũng mấp máy môi vừa nhướng mày, “Bà ấy?” Chị tôi bắt
quả tang anh giữa chừng, vậy là ông anh rể tôi lại quệt mu bàn tay qua mũi
với vẻ dàn hòa quen thuộc trong những dịp tương tự trong lúc nhìn vợ.
“Thế nào?” chị tôi cáu gắt lên tiếng. “Làm sao mà anh nhìn tôi trừng
trừng thế hả? Nhà đang cháy à?”
“Bà ấy - người vừa được nhắc đến,” Joe lịch sự gợi ý, “là ai nhỉ?”
“Và bà ấy là một phụ nữ, tôi đoán vậy phải chứ?” chị tôi nói. “Trừ
phi anh gọi cô Havisham là một quý ông. Mà tôi dám ngờ anh có thể đi xa
tới mức ấy lắm.”
“Cô Havisham trong thị trấn sao?” Joe hỏi.
“Vậy chẳng nhẽ còn có cô Havisham nào ở ngoài thị trấn sao?” bà
chị tôi vặn lại. “Bà ấy muốn thằng nhóc này tới chơi nhà. Và tất nhiên nó sẽ
đi. Và tốt hơn nó nên chơi ở đó,” chị tôi nói, lắc đầu nhìn tôi như một lời
động viên tôi hãy phấn chấn và hăng hái vận động vào, “bằng không tôi sẽ
bảo ban nó.”
Tôi đã nghe kể về cô Havisham trong thị trấn - tất cả những ai sống
trong vòng vài dặm quanh đây đều từng nghe tới cô Havisham trong thị trấn
- như một quý bà rất giàu có và dữ tợn luôn sống khép kín trong một tòa nhà
to tối tăm ảm đạm được rào giậu chắc chắn để phòng trộm.