“Ối! Ông đừng cắt cổ cháu, ông ơi,” tôi kinh hãi van xin. “Xin ông
đừng làm thế.”
“Nói cho tao biết tên mày!” người đàn ông ra lệnh. “Nhanh!”
“Pip, thưa ông.”
“Nói lại,” ông ta vừa nói vừa trừng mắt nhìn tôi. “To cái mồm lên!”
“Pip, Pip, thưa ông.”
“Chỉ cho tao xem mày sống ở đâu,” người đàn ông nói. “Tay đâu, chỉ
xem nào!”
Tôi chỉ về phía làng mình, nằm trên vùng đất bằng phẳng ven bờ,
giữa những rặng cây dương tía và những thân cây bị xén ngọn, cách nhà thờ
chừng một dặm.
Người đàn ông lạ mặt, sau khi nhìn tôi một thoáng, dốc ngược tôi
xuống, rồi lục hết túi áo túi quần tôi. Trong đó chẳng có gì ngoài một mẩu
bánh mì. Khi nhà thờ trở lại đúng như cũ - bởi kẻ này ra tay đột ngột và
mạnh đến mức ông ta làm ngôi nhà thờ bỗng dưng lộn ngược trước mắt tôi,
vậy là tôi trông thấy tháp chuông ở tận dưới chân mình - ý tôi là khi nhà thờ
trở lại đúng như cũ trong mắt mình, tôi bị đặt ngồi lên một tấm bia mộ cao
nghêu, cả người run bần bật trong khi ông ta ngấu nghiến ăn mẩu bánh mì.
“Thằng chó con,” ông ta vừa nói vừa liếm môi, “mày có hai má
phúng phính quá nhỉ.”
Tôi tin là hai má mình phúng phính, cho dù lúc ấy tôi còi hơn so với
tuổi, và chẳng khỏe mạnh gì.
“Quỷ bắt tao đi nếu tao không chén được chúng,” người đàn ông nói,
kèm theo một cái lắc đầu đe dọa, “mà tao cũng muốn thế lắm rồi đấy!”
Tôi thiết tha bày tỏ hy vọng ông ta sẽ không làm vậy, rồi bấu chặt
hơn lấy tấm bia mộ ông ta đã đặt tôi ngồi lên; một phần để khỏi bị ngã
xuống; một phần để khỏi bật khóc.
“Giờ nhìn tao xem nào!” người đàn ông ra lệnh. “Mẹ mày đâu?”
“Đằng kia, thưa ông!” tôi đáp.