Tôi để mình tin chị, tin rằng chị không nói dối và Simon chưa chết. Tôi
vùi đầu vào cánh tay. Chúng tôi nên làm gì tiếp theo đây, chúng tôi nên trù
tính sao cho hợp lẽ và hữu hiệu vào buổi sáng? Nếu sau đó, đến trưa, chúng
tôi vẫn chưa tìm thấy Simon thì nên làm gì? Một trong hai chúng tôi có nên
đi báo cảnh sát không? Nhưng tôi chợt nhớ ra chúng tôi không điện thoại,
không ô tô. Có lẽ tôi nên vẫy xe đi nhờ và đến thẳng Lãnh sự Mỹ. Ở Quế
Lâm có chi nhánh nào không? Còn cơ quan American Express? Nếu có, tôi
sẽ nói dối tôi là thành viên của Platinum Card, được giao mọi nhiệm vụ cần
thiết, tìm kiếm và cứu hộ, vận chuyển khẩn cấp bằng máy bay.
Tôi nghe thấy tiếng sồn sột và ngẩng đầu. Quan đang ngoáy con dao
Thụy Sĩ vào lỗ khóa cái hộp.
- Chị làm gì thế?
- Mất chìa khoá. - Chị giơ con dao, tìm công cụ tốt hơn. Chị chọn cái tăm
nhựa. - Chị cho vào trong này nhiều thứ, từ lâu lắm rồi. - Chị chọc que tăm
vào lỗ khóa. - Libby-ah, đèn pin trong túi, lấy hộ chị nhé?
Dưới ánh sáng, tôi thấy cái hộp làm bằng gỗ đỏ sẫm, mép viền đồng thau
đã mờ xỉn. Trên nắp chạm phù điêu những cái cây rậm rạp, một con hươu
nhỏ đã chết vắt trên vai người thợ săn Bavaria, con chó nhảy nhót trước
mặt anh ta.
- Trong đó có gì?
Một tiếng cách và Quan ngồi dậy. Chị mỉm cười, chỉ vào cái hộp:
- Em mở ra mà xem.
Tôi nắm lấy cái then nhỏ bằng đồng thau và từ từ mở nắp. Những âm
thanh leng keng bùng lên. Giật mình, tôi buông rơi cái nắp. Im lặng. Đây là
cái hộp âm nhạc.
Quan cười khúc khích:
- Hừ, thế em tưởng trong ấy có ma à?
Tôi lại mở nắp, và những âm thanh can trường, trong như bạc tràn đầy
đường hầm nhỏ, vui đến chói tai, một bản hành khúc dành cho đàn ngựa