thể biệt lập mà là những thành viên hợp tác của một hệ thống xã hội chung
có quyền lợi chung đối với những gì diễn ra.
Mặc dù các mô hình có vẻ như là bốn tình huống hay phạm trù khác biệt
hoàn toàn, thực tế chúng có thể được xem là có quan hệ chặt chẽ và gắn bó
lẫn nhau. Chúng là bốn phạm trù nhỏ trong một cấu trúc lớn hơn: hiệu quả
tổ chức và quản lý. Bốn mô hình trong cấu trúc này thể hiện các giá trị
chưa biết đến mà vì chúng con người, các chương trình, chính sách và tổ
chức sinh ra và mất đi.
KẾT LUẬN
Tranh cãi xung quanh mô hình này miêu tả các tổ chức và những vấn đề mà
các tổ chức ấy phải giải quyết vẫn đang tiếp diễn. Trong khi nỗ lực tìm ra
cấu trúc cho phân tích tổ chức, Quinn và Rohrbaugh tiếp cận rất nhiều nhà
nghiên cứu và chuyên gia về tổ chức để xác định các chiều cơ bản đối với
những vấn đề của tổ chức. Trên thực tế, ba chiều của mô hình mô tả rất
chính xác ba lĩnh vực chủ yếu còn tranh cãi, và nghiên cứu chỉ ra rằng các
tác giả đã rất thành công khi cố gắng cung cấp một cấu trúc cho hiệu quả
của tổ chức.
Trước những chỉ trích, Quinn and Rohrbaugh thống nhất rằng mô hình
không gian là một dạng của phép nghịch hợp: một kết hợp của những khái
niệm đơn giản và có vẻ như mâu thuẫn. Tuy nhiên, những nghịch lý trên lý
thuyết không nhất thiết phải đối nghịch trong trải nghiệm. Họ cho rằng một
tổ chức có thể vừa gắn bó vừa hiệu quả hay vừa ổn định vừa linh hoạt. Liệu
tính đơn giản rõ ràng của nó có hạn chế phạm vi của mô hình? Quinn và
Rohrbaugh có vẻ muốn tranh luận điều ngược lại khi cho rằng bản thân quá
trình tạo ra mô hình này đã năng suất rồi. Các tác giả trình bày một số
phương thức thay thế đối với việc so sánh và mô tả mô hình, chẳng hạn
việc sử dụng mô hình chức năng tiên quyết của Parson, trong đó trình bày
các giá trị cốt lõi, các cơ chế phối hợp và cơ cấu tổ chức.