KẾT LUẬN
Động lực khiến một nhà bán lẻ sử dụng FGP là vị thế đàm phán mua hàng
tăng lên và có nhiều lợi ích kinh tế quy mô. Mặt khác, các nhà cung cấp
thường không hài lòng với sự phát triển này và miễn cưỡng tham gia FGP
vì họ cho rằng việc gia tăng công khai (về giá) liên quan làm yếu đi vị thế
đàm phán của họ. Sự thiếu vắng một cơ chế phân bổ các lợi thế hiệp lực
một cách công bằng gây trở ngại cho việc ứng dụng FGP vì nó hạn chế việc
tạo dựng lòng tin.
Có thể thay thế cho FGP là mô hình quản lý tồn kho bởi nhà cung cấp VMI
(xem Chương 48), mô hình lập kế hoạch, dự báo và bổ sung kho hàng hợp
tác CPRF (Collaborative Planning, Forecasting and Replenishment) và mô
hình lập kế hoạch bổ sung kho hàng liên tục CRP (Continous
Replenishment Planning). CRP là một chiến lược khá đơn giản trong đó các
thành viên của chuỗi cung ứng liên tục (cụ thể là nhà cung cấp và nhà bán
lẻ) trao đổi thông tin về nhu cầu thực tế, mức độ tồn kho và giao nhận thực.
Các thành viên chuỗi cung ứng bổ sung kho hàng với sự hỗ trợ của dữ liệu
điểm bán thay cho việc bổ sung từng lần, dựa trên các mô hình quản lý tồn
kho đơn giản và số lượng đặt hàng theo kinh tế truyền thống. Theo cách
tiếp cận này, các thành viên chuỗi cung ứng hợp tác ở bước phối hợp trong
đó thông tin thế chỗ cho hàng tồn kho. CRP cho phép giao nhận liên tục số
lượng hàng ít trên cơ sở sử dụng thực tế (tức là tạo ra cầu kéo). Sự giống
nhau giữa VMI và FGP là cả hai công thức đều chuyển đa phần các quyết
định và trách nhiệm của chuỗi cung ứng về mức tồn kho tới một thành viên
của chuỗi nhằm giảm chi phí và tăng giá trị khách hàng.
THAM KHẢO
Assen, M.F. van, Hezewijk, A.P. van và Velde, S.L. van de (2005)
Reconfigurations of Chain and Networks (tạm dịch: Tái định dạng Chuỗi
và Mạng lưới). Amsterdam: Elsevier Business Publishers.