nhận thông qua năm giác quan sinh học. Mắt anh có thể thu nhận được một
cái gì đó, não anh diễn giải các tín hiệu ánh sáng nhận được và cho anh một
hình ảnh đại diện.
Rồi anh lại hiểu qua một thứ khác vì hình ảnh đại diện đó nhắc anh nhớ
một ký ức hay chạm một sợi dây nhạy cảm gì đó trong tâm hồn anh, thế rồi
anh có một cảm xúc. Cứ thế, bộ não xây nên những gì mà anh nghĩ là mình
nhìn được từ thế giới. Nói đại khái, anh không nhìn thấy thế giới thực, mà
chỉ nhìn thấy những gì não của anh cho anh thấy.
Vậy thì, nếu anh trở thành có khả năng phân biệt người đối thoại của
mình thu nhận thông tin qua kênh nào và xử lý thông tin ra sao, anh có thể:
đoán được người đó suy nghĩ như thế nào, và...
giao tiếp với người ấy theo kênh mà người ấy giao tiếp;
sử dụng cấu trúc mà người ấy dùng cho tư duy: để giúp người ấy làm
tốt hơn nữa những gì họ đã làm tốt, sửa chữa những gì không hoạt
động hoặc đã ngừng hoạt động, giúp họ học những cách mới để xử lý
thông tin;
dẫn dắt người đó ra khỏi khung tư duy thông thường của họ.
- Khi cô nói đồng hành, điều đó có ý nghĩa gì? Jonathan hỏi.
- À được, trong số những từ tôi hay dùng thì đồng hành bao gồm tất cả
các kiểu giao tiếp. Nhưng đó là cách dùng từ của riêng tôi, anh có thể có
cách của riêng anh.
Thế đấy, tôi vừa kể anh nghe cách nhận ra được một người vận hành ra
sao. Điều này rất hữu ích cho những gì chúng ta cần cùng nhau phát triển.
Cô gái vạch hình ảnh sau đây trên vỏ một thân cây:
Có ba tầng cho phép ta đoán ra kênh giao tiếp: