khi nó đến đó sau hồi bị sốt do viêm khớp, cũng phải nằm hàng giờ trên
giường, và trong những tuần đầu có vẻ như những Người Vay Mượn không
biết tới sự tồn tại của nó.
“Nó ngủ trong căn phòng cũ dành cho trẻ con, phía sau phòng học. Phòng
học hồi đó được phủ khăn, bọc vải và đầy đồ lặt vặt bỏ đi - những hòm
những xiểng linh tinh, một cái máy khâu hỏng, một bàn viết, một con ma-
nơ-canh của thợ may, một cái bàn, vài cái ghế, và một chiếc piano cơ không
dùng nữa - vì những đứa trẻ từng sử dụng phòng này, con cái của bà dì
Sophy, đã lớn từ lâu, đã kết hôn, đã qua đời hoặc chuyển đi chỗ khác. Căn
phòng trẻ con mở ra phía phòng học và từ giường mình em trai ta có thể
nhìn thấy bức tranh sơn dầu trận Waterloo treo trên lò sưởi phòng học và, ở
trên tường, một chiếc tủ lắp kính, và bên trong tủ, treo trên móc và giá, là
một bộ ấm tách trà của búp bê - rất dễ vỡ và cũ kỹ. Ban đêm, nếu cửa
phòng học mở, nó có thể nhìn dọc hành lang sáng đèn dẫn đến đầu cầu
thang, và nó cảm thấy được an ủi khi nhìn thấy, vào lúc hoàng hôn, bà
Driver xuất hiện ở đầu cầu thang và đi ngang qua hành lang mang một khay
đựng bánh bích quy Bath Oliver và bình pha lê cao đựng rượu vang Fine
Old Pale Madeira cho bà dì Sophy. Khi đi ra, bà Driver dừng lại và vặn nhỏ
đèn khí ga trong hành lang cho đến độ chỉ còn là ngọn lửa xanh mờ, và rồi
nó nhìn theo khi bà đi cồm cộp xuống cầu thang, từ từ chìm xuống khuất
khỏi tầm mắt giữa những con tiện cầu thang.
“Dưới lối đi này, trong hành lang tầng dưới, có một chiếc đồng hồ, và suốt
đêm nó nghe đồng hồ đổ chuông điểm mỗi giờ qua. Đó là một chiếc đồng
hồ quả lắc to và rất cũ. Ông Frith từ thị trấn Leighton Buzzard hàng tháng
đến để lên giây, như bố ông ta và trước đó nữa là ông bác của ông vẫn làm.
Trong tám mươi năm, họ nói (và đây là điều ông Frith biết chắc chắn) chiếc
đồng hồ chưa từng dừng lại và, như tất cả mọi người được biết, cả nhiều
năm trước đó nữa. Điều thú vị là - chiếc đồng hồ chưa bao giờ được phép
di chuyển đi. Nó đứng sát ván ốp chân tường, và các phiến đá lát sàn xung