“Ờ, mẹ chỉ nói - có phần còn lại của bộ ấm trà, mẹ nói - ở trên kia, nó vẫn
luôn ở đó, trên chiếc tủ trong góc phòng học.”
“Con không thấy có gì xấu trong chuyện đó cả,” Arrietty vừa nói vừa thả
những khúc hành xuống nồi xúp, từng khúc từng khúc một.
“Nhưng nó là một chiếc tủ cao,” bà Homily kêu lên. “Phải trèo lên qua rèm
cửa. Mà bố con ở tuổi này...” bà ngồi thụp xuống một cái nút sâm banh kim
loại. “Ôi, Arrietty, mẹ ước gì mẹ chưa bao giờ nhắc đến nó!”
“Mẹ đừng lo,” Arrietty nói, “bố biết là bố có thể làm gì mà.” Cô bé kéo một
cái nút cao su của chai nước hoa ra khỏi cái lỗ của ống nước nóng và để
một tia nước nóng chảy xuống chiếc nắp thiếc của một lọ thuốc nhức đầu.
Cô bé cho thêm nước lạnh vào và bắt đầu rửa tay.
“Có thể,” bà Homily nói. “Nhưng mẹ đã bai bải chuyện đó suốt. Cái tách
trà thì có gì đâu! Bác Hendreary của con chẳng bao giờ uống thứ gì nếu nó
không được đựng trong một chiếc cốc tầm thường làm từ quả sồi. Ấy thế
mà bác ấy sống đến già cấc và vẫn còn sức để di cư. Bên ngoại của con
tuyệt chẳng bao giờ có gì ngoài một cái đê nhỏ bằng xương dùng chung
nhau. Nhưng một khi con đã được dùng một cái tách trà rồi thì, nếu con
hiểu ý mẹ...”
“Vâng,” Arrietty vừa nói vừa lau khô tay bằng một cuộn khăn làm từ băng
phẫu thuật.
“Cái rèm cửa ấy,” bà Homily kêu lên. “Ông ấy không thể trèo lên rèm cửa
ở cái tuổi này - và không thể trèo lên bằng các cục bông rèm cửa!”
“Với cây kim của bố thì được,” Arrietty nói.
“Cây kim của bố! Mẹ lại lôi bố vào cả chuyện đó nữa. Lấy một cây kim mũ
ấy, mẹ nói với bố, và buộc một đoạn ruy băng vào đầu kim, rồi tự kéo mình
lên tầng trên. Hồi đó là để bố con mượn chiếc đồng hồ ngọc lục bảo từ
phòng ngủ của Bà để mẹ đo thời gian nấu bếp.” Giọng bà Homily bắt đầu