nặng. Ta có thể cầm quai nó, như thế này... nhưng nó sẽ rơi hay trĩu xuống,
có thể nói như vậy. Ta phải cầm một cái tách như thế này bằng cả hai tay.
Một miếng pho mát trên giá, hay một quả táo - ừ thì, tôi sẽ thả xuống... đẩy
nó một cái và nó sẽ rơi còn tôi sẽ trèo xuống trong khoảng thời gian khả
năng cho phép và lấy nó. Nhưng với một cái tách - bà hiểu không? Và
trong khi leo xuống ta lại phải để ý chân mình. Và, như tôi nói, vài cục
bông bị mất. Ta không biết sẽ níu vào đâu, không an toàn...”
“Ôi, ông Pod,” bà Homily nói, giàn giụa nước mắt, “thế ông đã làm gì?”
“Ừ thì,” ông Pod nói, ngồi ngả lưng lại, “nó cầm lấy cái tách.”
“Ý ông là gì?” bà Homily thốt lên, sợ hãi.
Ông Pod tránh ánh mắt bà. “Ừ thì, nó đã ngồi dậy ở trên giường nhìn tôi.
Tôi đã trèo lên cái rèm cửa hơn mười phút, vì cái đồng hồ ngoài hành lang
vừa điểm mười lăm phút...”
“Nhưng ý ông là thế nào - ‘nó cầm lấy cái tách’?”
“Ừ thì, nó ra khỏi giường, rồi nó đứng đó, nhìn lên. ‘Cháu cầm cái tách
cho,’ nó nói.”
“Ôi!” bà Homily há hốc miệng, mắt bà nhìn chằm chằm, “và ông đưa cái
tách cho nó?”
“Nó lấy cái tách,” ông Pod nói, “một cách rất nhẹ nhàng. Và rồi khi tôi đã
xuống, nó đưa lại cho tôi.” Bà Homily úp mặt vào tay. “Thôi đừng như thế
mà,” ông Pod bứt rứt nói.
“Nó đã có thể bắt ông,” bà Homily rùng mình nói với giọng kìm nén.
“Đúng,” ông Pod nói, “nhưng nó đã đưa tôi cái tách. ‘Của ông đây,’ nó nói
vậy.”
Bà Homily ngẩng mặt lên. “Chúng ta sẽ phải làm gì đây?” bà hỏi.