“Họ sợ hãi,” Arrietty nhận thấy, “họ không cáu giận chút nào - họ rất, rất sợ
hãi.” Cô bé bước lên. “Không sao đâu...” cô bé lên tiếng.
Bà Homily ngồi sụp xuống trên cái ống chỉ bông; người bà bắt đầu run rẩy.
“Ôi,” bà nói, “chúng ta sẽ phải làm gì đây?” Bà bắt đầu đu đưa người, rất
nhẹ, bên này qua bên nọ.
“Ôi, mẹ, đừng!” Arrietty van xin. “Không tồi tệ đến thế đâu. Thực sự là
không mà.” Cô bé lần sờ bên dưới lớp áo len của mình; lúc đầu không tìm
thấy lá thư - nó đã bị trượt quanh người cô bé ra đằng sau - nhưng cuối
cùng cô bé rút được nó ra, nhàu nhĩ. “Nhìn này,” cô bé nói, “đây là một lá
thư từ bác Hendreary. Con đã viết thư cho bác ấy và cậu bé đem lá thư...”
“Con viết cho bác ấy!” bà Homily kêu lên với một tiếng thét kìm nén. “Ôi,”
bà than van, và nhắm mắt, “rồi tiếp theo nữa sẽ là cái gì! Chúng ta sẽ phải
làm gì?” rồi bà yếu ớt quạt quạt cho mình bằng bàn tay xương xẩu.
“Lấy cho mẹ một cốc nước, Arrietty,” ông Pod gắt gỏng. Arrietty đem nước
đựng trong một cái vỏ hạt phỉ cưa - nó đã bị cưa ở đầu nhọn và có hình
giống một cốc rượu brandy.
“Nhưng điều gì khiến con làm một việc như thế, Arrietty?” bà Homily nói
với giọng đã bình tĩnh hơn, đặt cái cốc rỗng xuống bàn. “Con bị làm sao
thế?”
Rồi Arrietty kể cho họ về chuyện bị “nhìn thấy” - hôm ở dưới cây anh đào
đó. Và cô đã giấu họ như thế nào vì không muốn làm họ lo lắng. Và điều
cậu bé đã nói về “tuyệt chủng”. Và - còn hơn cả quan trọng - việc biết chắc
rằng gia đình Hendreary vẫn còn sống cấp bách đến thế nào. “Bố mẹ hiểu
không,” Arrietty van nài, “xin bố mẹ hãy hiểu! Con đang cố gắng cứu
giống loài chúng ta!”
“Nghe từ ngữ nó dùng kìa!” bà Homily nói với ông Pod thật khẽ, tuyệt
chẳng có chút tự hào.