1923, hàng hóa Đức cũng trở nên rẻ mạt. Nước Đức lại gặp phải một
vấn đề khác. Nước này đã bị tước đoạt gần hết kho vàng trong
suốt những năm tháng ác mộng mở đầu thập niên 1920 và hiện
đang tiêu rất nhiều tiền của vào công cuộc tái thiết và thanh toán
các khoản bồi thường chiến phí tới mức mặc dù đã vay mượn rất
nhiều từ nước ngoài, nó vẫn không đủ khả năng xây dựng kho dự trữ
mới. Do đó, trong tất cả các quốc gia tại châu Âu, chỉ có nước Pháp
thành công trong việc thu hút vàng, mặc dù vậy, kết quả này đạt
được không phải nhờ rút vàng khỏi nước Mỹ mà là thông qua việc làm
suy yếu vị thế của nước Anh.
FED vẫn còn một cách để giúp châu Âu thoát khỏi tình thế tiến
thoái lưỡng nan này, hoặc chí ít cũng co kéo cho châu lục già thêm
chút thời gian. Nó có thể giảm lãi suất xuống mức thấp hơn nữa.
Không chỉ khiến tình hình dễ thở hơn cho nước Anh, hành động
điều chỉnh này cũng đáp ứng nhiều mục tiêu nội địa chính đáng
khác. Giá cả trên toàn thế giới đang giảm – không đột ngột, song
rất từ từ và đều đặn. Kể từ năm 1925, giá bán buôn ở Mỹ đã giảm
10%, còn giá tiêu dùng giảm 2%. Nước Mỹ cũng đã trải qua một cuộc
suy thoái nhẹ và hồi cuối năm 1926, một phần là do sự kiện Ford
chuyển đổi từ Model T sang Model A. Hai đại lượng chỉ báo nội địa
chính mà Strong lấy làm cơ sở để dẫn dắt các quyết sách tín dụng
của mình – xu hướng biến động của giá cả và mức độ của các hoạt
động kinh doanh – cho thấy FED nên nới lỏng. Song mức lãi suất
4% đã là thấp bất thường rồi.
Kể từ đầu thập niên 1920 khi ông bắt tay vào thực hiện chính
sách giữ lãi suất ở mức thấp để trợ giúp châu Âu, một nhóm người
trong nội bộ FED, dẫn đầu là Miller, đã ra sức kêu ca rằng Strong bị
ả
nh hưởng quá nhiều bởi những vấn đề quốc tế và đặc biệt là bởi
Norman. Trong suốt khoảng thời gian nước Anh quay lại với vàng
vào năm 1925, ông đã bị một số thành viên của Hội đồng buộc tội