những chấn động giống như ở những thời kỳ hỗn loạn trước đây bởi
lượng vàng tích lũy được.” Những đợt khủng hoảng trước đây đều
được châm ngòi bởi một cú sốc nào đó ít liên quan nhưng lại kích
động tâm lý bầy đàn. Cuộc khủng hoảng năm 1873 bị phủ bóng đen
bởi sự phá sản của công ty Jay Cooke. Năm 1893 là sự thất bại của
công ty National Cordage trong khi năm 1907 là sự sụp đổ của công ty
Knickerbocker Trust. Noyes rất thoải mái với thực tế là không có sự
kiện nào tương tự có thể sẽ xảy đến trong ngắn hạn, ngay cả là với
một khả năng rất mơ hồ.
Ông đã phát biểu quá sớm. Vào thứ Sáu ngày 19 tháng Chín, đế
chế của nhà tài phiệt Anh Clarence Hatry bất ngờ sụp đổ, bỏ lại các
nhà đầu tư với thiệt hại lên tới gần 70 triệu đô-la. Hatry, con trai
của một nhà buôn lụa Do Thái giàu có, đã từng học tại trường dòng
Thánh Paul ở London, liền sau đó tiếp quản việc kinh doanh của
cha mình và đến năm hai nhăm tuổi thì phá sản. Tuy nhiên, đến
năm ba nhăm tuổi, ông ta lại trở nên giàu có và khôi phục lại tài sản
của mình bằng việc đầu cơ các cổ phiếu ngành dầu mỏ và phát
triển các tập đoàn công nghiệp lớn trong trào lưu sáp nhập bùng nổ
thời hậu chiến. Trong suốt những năm 1920, sự nghiệp kinh doanh
của ông lên xuống thất thường với một vài thành công xuất sắc
cùng những thất bại đau đớn tương đương. Cho đến những năm
cuối thập kỉ, ông đã nhúng tay vào hầu hết các ngóc ngách của
nền kinh tế Anh.
Ông kiếm được cả gia tài nhờ gây dựng một tập đoàn bán lẻ mang
tên Drapery Trust, sau đó bán nó cho chuỗi cửa hàng Debenhams;
ông là người đạo diễn vụ sáp nhập các công ty xe bus London thành
Công ty General Omnibus; ông cũng điều hành một công ty môi giới
chứng khoán chuyên về các loại trái phiếu địa phương và đứng
đầu một loạt các quỹ ủy thác đầu tư câu kết chặt chẽ với nhau làm
khuynh đảo thị trường.