ty rượu “Regie alcool”. Trong thời gian ở Pháp ông Nguyễn Thế Truyền
nhiều lần đi diễn thuyết về nạn độc quyền nấu và bán rượu của Pháp. Cụ
Đặng Hữu Thụ viết về việc này như sau:
Ở Nam Kỳ, rượu được một công ty Pháp độc quyền nấu và do chính phủ
bán. Vì độc quyền nấu rượu dành cho các công ty Pháp, nên các người Việt
nam phải làm nghề nấu rượu theo phương thức cổ truyền bị phá sản, mất kế
sinh nhai. Khi mới thành lập, công ty rượu “Sociéte Francaise des
Distillenes de L”lndochine” có số vốn 2 triệu Francs. Vì lợi tức nhiều, các
cổ phần tăng gia mau chóng, số vốn tăng lên vào năm 1926 là 33 triệu
Francs. Lợi tức năm 1926 của công ty là 21 triệu Francs. Mỗi cổ phần năm
1901 là 500 Francs, đến năm 1926 bán tới 6.600 Francs. Chủ tịch công ty
rượu là ông A.R. Fontaine. Các ty rượu mở khắp nơi. Làng nào cũng có.
Các quan lại Việt nam được chỉ thị của cấp trên phải làm cho rượu bán
chạy, tiêu thụ được nhiều. Quan Phủ, Huyện nào mà trong hạt của mình,
rượu bán được nhiều rượu thì chóng được thăng thưởng. Vì vậy, có nhiều vị
quan buộc mỗi xã phải tiêu thụ một số lượng rượu nhất định. Việc bắt rượu
lậu gây ra nhiều tệ đoan. Nhà đoan đi xét rượu lậu, thấy ở bờ rào hay ở
ruộng của người nào, có giấu men rượu và dụng cụ nấu rượu, cùng rượu
lậu, là người ấy bị đưa ra toà phạt vạ, phạt tù rất nặng nề, không kể tiền bồi
thường thiệt hại cho nhà đoan”. (Sđd, trang 233)
Đặc biệt vào năm 1928, khi có vụ án Đồng Nọc Nạn, tờ báo,“La Tribune
Indochinoise” có đăng tải vụ này, tường thuật vắn tắt diễn tiến vụ án, kết án
gia đình Mã Ngân đã cấu kết với ông Phủ Huấn giựt đất của gia đình Mười
Chức. Vụ án đẫm máu đã làm thiệt mạng cò hiến binh Pháp và 3 người
trong gia đình Mười Chức. (Xem thêm “Vụ án Đồng Nọc Nạn, sách Nam
Kỳ lục tỉnh” cùng tác giả)
Năm 1929, ông Bùi Quang Chiêu cùng luật sư Dương Văn Giáo đi
Calcuua dự phiên họp của đảng Quốc Đại Ấn Độ. Nhân cơ hội này, hai ông
ghé thăm viện Đại học Tagore Santiniketan, mặc dầu không gặp được thi
hào Tagore. Năm sau, thi hào Tagore trên đường đi Nhựt Bổn, có ghé qua
Sài gòn, gặp và nói chuyện với ông Chiêu. Nhân dịp này, ông Chiêu có viết