giặc Đức bên Âu Châu. Lúc ấy có phong trào “tuyển mộ” người thuộc địa,
gởi sang mẫu quốc làm bia đỡ đạn, vì nước Pháp sắp lâm chiến với Đức
Quốc xã. Cũng quỷ quyệt như cộng sản sau này, người Pháp gọi các cuộc
bắt lính ấy là “tuyển mộ” chứ thật ra họ lùng bắt. Tại Tịnh Biên, dân chúng
nghe tin, một bọn thợ gặt đang gặt lúa ở ngoài ruộng, bỏ trốn mất. Rồi trai
tráng các làng gần biên giới bỏ trốn qua Miên hay vào Thất Sơn, núi
Tượng, núi Cẩm ẩn mình. Giữa lúc tình hình xôn xao như vậy mà ông đạo
Tưởng lại dẫn người đến tình nguyện đi lính cho Pháp qua bên Tây, làm cho
ông quận Lễ rất ngạc nhiên. Đại diện cho 36 tín đồ trung thành, ông đạo
Tưởng hăng hái nói:
- Đại bác, súng thần công cũng không thể sát hại được bần đạo mình
đồng gan sắt!
Ông còn thách thức một cách quả quyết:
- Nếu không tin, ông quận cứ đem họ ra sân banh bắn thử!
Chừng đó, ông chủ quận mới biết rằng đám tín đồ này vì mê muội, quá
tin vào phép thuật huyền bí mà hành động như vậy.
Do đó, đề nghị của ông đạo Tưởng bị bác.
Cũng ngày hôm ấy, khi vừa tới quận đường, ông đạo Tưởng và tín đồ
thấy rõ ông Hương tuần Hiếm từ trong đó đi ra. Mối thâm thù gia tăng
thêm. Có người quá hăng say, gọi ông Hiếm là “kỳ đà cản mũi”.
Diễn tiến cuộc bạo động:
Căn cứ vào bài vị thờ các nạn nhân sau này, người ta biết rõ ngày tháng
xảy ra cuộc bạo loạn ấy. Đêm ác mộng hãi hùng xảy ra ngày 26-2-1939 tức
ngày mùng 9 Tết năm Kỷ Mão. Theo lời tiết lộ của những tín đồ thân cận
nhất ông đạo Tưởng, thì kế hoạch bạo động được ấn định vào ngày rằm
tháng Giêng năm đó, nhưng bị bại lộ, nên lịnh “khởi nghĩa” được ban hành
sớm hơn. Chọn ngày mùng 8 Tết, dân chúng ùn ùn đến am ông đạo Tưởng
để nghe giảng đạo và thuyết pháp. Dịp này rảnh việc đồng áng, thôn dân
kéo nhau đi chùa như trẩy hội. Trăng non thượng tuần, khí hậu mát mẻ,
thanh niên thiếu nữ kéo nhau lên am chật nức cả đường đi.