được cho ăn học cao. Nhiều người đỗ đạt, giữ địa vị lớn. Trong số mấy
người con, người ta chỉ nghe danh các ông.
Con thứ ba, còn gọi là cậu Ba Oai, được cho qua Pháp du học, không đỗ
đạt gì nhưng được tiếng là công tử ăn chơi, coi tiền như rác. Khi về nước,
cậu Ba Oai có dẫn theo người vợ đầm. Vẫn theo tin đồn của người địa
phương, khi về làm dâu nhà ông Phủ Kiểng, cô đầm ấy không ăn mắm kho
được, và hàng ngày phải xắc chuối cho heo ăn. Chán nản trước cảnh sống
của đại gia đình như vậy cô vợ đầm của cậu Ba Oai xin về xứ. Còn cậu Ba
Oai, từ ngày du học trở về, thường gọi cha là “Me xừ Kiểng” mỗi câu nhắc
đến ông như phong tục Tây phương. Vì lẽ đó, trong các cuộc hội hè đình
đám ở Mỏ Cày, nhiều người học chữ Nho, có chức phận trong làng, thường
bàn tán với nhau:
- Ê? Có con đừng cho đi Tây học làm gì!
- Tại sao vậy? Một ông hỏi.
- Cho nó qua Tây du học, lúc về nhà nó kêu tên cha mỗi khi nói chuyện
như cậu Ba Oai kêu ông Phủ Kiểng bằng “Me xừ Kiểng”. (Monsieur Kiểng)
Người con thứ sáu của ông Phủ Kiểng tên Nguyễn Duy Quang. Ông
Quang sinh năm 1906 tại Đại Điền, được du học bên Pháp, tại trường Cao
đẳng Thương Mại. Năm 1935, ông Quang về Huế làm Chánh văn phòng
cho Hoàng đế Bảo Đại. Ông Quang là người được Hoàng đế tin cậy, cho
tháp tùng vua và Hoàng gia sang Pháp 1939. Lúc trở về Nguyễn Duy
Quang được cử làm Bố chánh tỉnh Thanh Hoá. Cũng như cha, ông Quang
rất thân Pháp và được Pháp tặng thưởng nhiều huy chương. Ông Quang còn
hai người anh là Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Duy Tiên, cũng có chức phận,
nhưng không tài liệu nào nói rõ.
Con thứ chín là thầy Cai Tâm, một mẫu người đặc biệt, được dân chúng
rất kính trọng. Tuy sống trên nhung lụa, hấp thụ văn hoá Pháp, nhưng thầy
Cai Tâm chỉ muốn làm một chức vụ tượng trưng: Cai tổng. So với tài học
và quyền thế của gia đình, nếu thầy Cai Tâm muốn làm Huyện hay Phủ
cũng dễ như trở bàn tay. Tới lui ở công sở làng, hay dự những đám tiệc,