hết tiền, cậu ghé dinh tham biện, chủ tỉnh “mượn đỡ” để xài. Nể tình cha
cậu, các quan Tây cũng giúp đỡ ít nhiều. Hồi trước ở miền Nam, thấy ai ăn
ở tánh nết ngang tàng, ông bà ta thường nói:
Cậu Hai, cậu chớ có lo,
Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài
Tôi được nghe một giai thoại chính cụ Nguyễn Văn Vực kể lại: “Có một
lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miêng ngao du tới xứ Bạc Liêu.
Lúc đó nhằm mùa khô, nhiều ghe chài đến “ăn lúa” tại nhà các đại điền chủ.
Lúc đó, dưới bến sông, trước nhà anh em ông chủ Thời, chủ Vận diễn ra
cảnh vác lúa xuống ghe rộn rịp như cái chợ. Ở địa phương này, dân chúng
ai cũng ngán hai anh em chủ Thời, chủ Vận. Ông chủ Thời có một cô con
gái tên là “Cô Hai Sáng”. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói
đến chữ “Sáng” như “buổi sáng”, “hồi sáng mai”, mà phải nói lại “buổi
sớm”, “sớm mới”… thì đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao.
Khi mấy chiếc ghe hầu của cậu Hai Miêng do thủ hạ chèo đi ngang qua,
vô tình ông chủ Thời trông thấy, kêu một đứa bạn (người ở đợ) gần đó, hỏi
lòn:
- Ghe của ai đi dưới sông đó bây?
Nghe câu hỏi phách lối ấy, cậu Hai Miêng tức giận. Cậu cho ghe ghé lại.
Thấy cô Hai Sáng đang đứng chơi dưới bến, cậu Hai Miêng liền cho tay
chân bộ hạ bắt cô ta trói lại, và kéo lên cột buồm. Khi biết đó là cậu Hai
Miêng, quan tham biện Pháp còn nể, ông chủ Thời xuống nước nhỏ, năn nỉ.
Ông thương lượng với cậu Hai Miêng “xin chuộc” cô Hai Sáng bằng một
bao cà ròn giấy bạc. Bao cà ròn đơn bằng đệm bàng, đáy rộng, miệng túm,
hồi trước thường dựng gạo, dung lượng khoảng 10 lít (hay 1 yến), rất thông
dụng ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Lúc đó nhiều Hoa kiều từ miền Hoa
Nam nhập cư vào miền Nam, chịu khó buôn bán lẻ. Hàng ngày, họ vác một
bao cà ròn trên vai đựng cốm, kẹo, thuốc cảm mạo, kim, chỉ, thuốc hút,
bánh in… đi len lỏi vào các miền quê bán dạo. Người dân quê gọi “cái chợ
nhỏ lưu động ấy” là “chệt cà ròn” (cà ròn khị). Khi ông chủ Thời năn nỉ xin
tha cho cô Hai Sáng, cậu Hai Miêng bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng,