Bảng trên (từ trái sang phải) mô tả quá trình phát triển của mỗi ký hiệu
từ một chữ tượng hình nguyên bản đến một biểu tượng được khắc chạm dễ
dàng hơn, được hình thành bởi những đường nét của một dụng cụ nhỏ hình
cái nêm - như vậy tạo thành hệ thống chữ viết cổ có hình cái nêm.
Khi xem xét những nét tương thích mà người nguyên thủy nhận thấy
rất rõ ràng, chúng ta, những người thuộc thế hệ hậu Aristote, dường như bị
cuốn hút bởi sự bất hợp lý của họ hơn là sự chính xác, Nếu đứng ở góc độ xã
hội nguyên thủy để xem xét, chúng ta phải gạt bỏ đi tư duy hợp lý và trí thức
khoa học. Eliade viết: “Điểm mấu chốt của tất cả những sự giống nhau này,
trước hết là để liên kết con người với nhịp điệu và năng lượng của vũ trụ và
sau đó hòa quyện những nhịp điệu đó” - giống như trong nghi thức giao hợp
thiêng liêng - “hợp nhất các trung tâm và cuối cùng là hòa nhập vào cái siêu
nghiệm, Eliade gọi quá trình trên là “sự hợp nhất căn bản”. Mục đích cơ bản
của thần học thời nguyên thủy hoàn toàn không khác gì so với mục đích của
bất cứ ai trong nỗ lực đạt tới chân lý: những người này, tổ tiên xa xưa của
chúng ta, tiến hành tìm kiếm tri thức đắc dụng, giúp họ đạt được sự thịnh
vượng, con cháu đông đúc và sự bất tử duy nhất mà con người có được - bảo
đảm con cháu của họ không chết cùng với họ. Và những người có đời sống
tâm linh huyền bí hơn thì tin rằng tri thức có thể cho phép họ tiếp xúc với
một điều gì đó bên ngoài bản thân họ. Tất cả các lễ nghi đều có hạt nhân phi
lý và thần bí của nó, có đỉnh cao của sự thánh hóa, có những giây phút xuất
thần; và dù đó là nghi thức thánh hóa bánh và rượu trong Thiên Chúa Giáo,
vũ điệu của những người Hồi giáo, hay khoái cảm của người Sumer thì mục
đích của nó là hướng đến một sự hợp nhất tuy ngắn ngủi nhưng tuyệt diệu
với thực tại siêu nghiệm. Đối với những người cổ đại, những thực tại như
vậy nằm ngoài trái đất, thậm chí nằm ngoài mặt trăng. Cicero đã viết:
“Supra lunam sunt aeterna omnia”, nhắc lại một tín ngưỡng cổ xưa nhất ở
vùng Địa Trung Hải về những khái niệm tuyệt đối, nó có nghĩa là: “Bên kia
mặt trăng là tất cả những gì vĩnh cữu”.
Khoảng một hoặc hai thế kỷ đầu thiên niên kỷ thứ hai trước Công
nguyên, một gia đình ở thành phố Ur nhận thấy không có thể giới quan tĩnh