được đưa vào trong bộ não và được nó chấp nhận. Nó nhắm vào việc tạo ra
một xung lực không ý thức mà từ đó sẽ khởi phát hành vi.
CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA ÁM THỊ
Ám thị là một hành vi đặc biệt và những điều kiện của nó cũng phải
như thế. Và sự ám thị chỉ thực hiện được với các điều kiện đó mà thôi.
1/. Sự ám thị tương đối tự nhiên.
Tôi nhắc lại người nhút nhát kia ra khỏi phòng chiếu phim. Anh ta
muốn có sức mạnh bởi vì anh ta yếu đuối. Ý muốn này tiềm ẩn trong anh ta.
Thế Fairbanks có ám thị người nhút nhát này không? Không. Ông ta chỉ
khởi động sự vận hành mà thôi: và sự tự ám thị của người nhút nhát làm hết
phần còn lại. Cái ý muốn đó biến thành lòng tin nhất thời và sẽ tạo ra các
hành vi (dáng đi, cách nhìn, giọng nói, cử chỉ,…).
Điều kiện thứ 1: Sự ám thị tự nhiên phải tương ứng một cảm nghĩ
sẵn có trong vô thức của chủ thể và có thể tạo ra một xung lực.
Điều kiện thứ 2: Là việc chống lại ám thị không được xảy ra.
Những trường hợp thông thường: kiệt sức, cảm xúc, nhút nhát suy nhược, lo
hãi,… Như thế, sư chống đối của tinh thần bị suy giảm, sẽ giúp cho người
đưa ra gợi ý hoạt động dễ dàng hơn. Thí dụ: nếu người ta nói với một người
quá xúc cảm đang trong lúc sợ sệt “trời ơi, anh cảm thấy khó chịu lắm phải
không và sao anh tái xanh như thế…” Lời ám thị này không gặp phải sự
phản kháng nào hết. Ngoài ra, nó chỉ chạm phải một cảm giác đã có sẵn
trong chủ thể, và nỗi lo hãi liền khởi phát.
Thế người đưa ra gợi ý đã làm gì? Ông ta nung đúc, thúc đẩy và kích
thích cái cảm nghĩ vô thức kia. Chủ thể liền chuyển sang tình trạng tự ám
thị. Như vậy, người ta thấy việc ám thị rất khó xảy ra nếu chủ thể làm chủ
các khả năng của mình; anh ta sẽ tranh luận, suy luận…và như thế chúng ta
lại rơi vào trường hợp thuyết phục. Như vậy, sự ám thị tự nhiên chỉ có
những hiệu quả nhất thời, bởi vì nó tùy thuộc vào một trạng thái thiểu năng
nhất thời.