dòng, phải khổ sở. Câu trả lời duy nhất là “Không được, đã quá trễ để có thể
làm một cái gì đó”.
Bất chấp sự xác tín đó, nỗi ám ảnh cứ tiếp tục: “Nhưng có thể được
mà, cách đây vài năm, khi tôi thấy ông ta bắt đầu uống rượu, tôi đã can
thiệp thì chắc ông ta sẽ không chết. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết
của ông ta, hoàn toàn và tuyệt đối chịu trách nhiệm”.
Bà lại chạy đến các bác sĩ, nhà tâm lý học; nghiên cứu sách cho đến
kiệt sức về tật nghiện rượu, về tự do ý chí, về thuyết định mệnh…
Và khi trách nhiệm của bà càng giảm chừng nào thì bà lại càng đặt
cho mình càng nhiều câu hỏi thêm chừng đó. Trách nhiệm này sau đó được
nới rộng cho tất cả những người nghiện rượu. Bà đi lang thang ngoài đường,
nhìn vào các quán cà phê. Bà đứng ngoài chờ những thanh niên mà bà nhìn
thấy họ uống rượu… Bà bỏ hết thời giờ để viết thơ và gọi điện thoại đến
những người mà bà nghĩ là nghiện rượu, v.v… Còn những đêm của bà thì
sao? Bà trải qua những đêm dài để chống lại cái cảm giác trách nhiệm toàn
vẹn đó, để tự nhủ trong sự phẫn nộ là “Nhưng dù sao, tôi có phải là Chúa
đâu để phải chịu trách nhiệm về toàn bộ nhân loại như thế…”. Và một định
kiến nhức nhối không kém khác “Nếu Chúa không hiện thực thì sao? Thế ai
phải chịu trách nhiệm đây?… Tất cả mọi người, và tôi trước tiên, bởi vì tôi
biết là mình phải chịu trách nhiệm…”
Vì vậy đây là cái vòng luẩn quẩn không dứt. Bất cứ một xác tín hợp
lý nào đều khởi phát một chuỗi ám ảnh mới. Vì thế việc tự sát đến với bà X.
như là giải pháp duy nhất có thể: trốn chạy để không còn nghĩ đến nữa, để
không còn phải khổ. Nhưng ở đây cũng thế (mà cũng may đấy) một nỗi ám
ảnh mới xuất hiện: “Tôi phải chịu trách nhiệm… bởi vì chỉ với một lời nói
của tôi có thể ngăn cản một người uống rượu… thì tôi phải sống để làm điều
này”. Và cũng chính với tâm trạng này mà bà đến gặp nhà tâm lý.
Một người bình thường khó có thể hình dung được những nỗi khổ
mà sự ám ảnh gây ra. Bởi vì chính sự ám ảnh đó, rất thường khi, là triệu
chứng của một chứng bệnh tâm lý rất nặng…