thật sự lần đầu tiên, tôi được dẫn dắt để theo dõi vài ngành của khoa bác vật
học và nhờ đó những khả năng xét đoán của tôi được cải tiến, mặc dù vẫn
phải phát triển không ngừng”.
Thời kỳ sau chuyến hành trình, ông phải bận rộn với biết bao nhiêu vấn
đề vì làm thế nào đúc kết những thành quả công việc nghiên cứu của ông
trên chuyến tàu Beagle. Năm 1838, ông trở thành thư ký của Học Hội Địa
Chất và giữ chức vụ này trong ba năm.
Đầu năm 1839, Darwin thành hôn với Wedgwood, con gái của chú ông
và họ chung sống với nhau tại London, nhưng vì sức khoẻ suy kém bắt
buộc ông phải giả từ thành phố và năm 1842, ông lui về làng Downe ở tỉnh
Kent. Ông viết rằng “Điểm chính yếu là không khí hết sức đặc biệt của
miền thôn dã. Tôi nghĩ rằng chưa bao giờ được sống trong một vùng quê
nào hoàn toàn yên tĩnh hơn như ở đây”.
Ông bị đau yếu luôn, nhất là chứng khó tiêu đã hành hạ suốt cuộc đời
ông, mặc dù ông có thói quen che giấu sự đau đớn. Thói quen của ông là
làm việc lặng lẽ trong sự ẩn dật yên tịnh tại làng Downe đến khi cuối cùng
sức khoẻ ông hoàn toàn kiệt quệ, ông phải nghỉ một thời gian ngắn để phục
hồi sức lực và chuẩn bị cho một sự say mê khác trong công việc.
Những năm đầu sống tại Downe, ông bỏ thì giờ trong việc nghiên cứu về
các quần đảo núi lửa và địa chất học ở Nam Mỹ, cùng với biểu đồ có giá trị
về các loại sò nhỏ, nhưng trong khi lay hoay các tài liệu đó, Darwin đã
chuẩn bị và có sẵn trong đầu một dự định sẽ hoàn thành học thuyết vĩ đại
của ông. Đó là thuyết tiến hoá.
Ông bắt đầu có những ý niệm ấy khi ông khởi sự viết nhật ký vào năm
1834 “Thật không thể nào phỏng đoán được nhu cầu của loài vật có thể nhờ
vào người nào sáng tạo ra vì đất nước này đã mọc lên từ biển”.
Nhưng năm 1842, ông đã phác hoạ lý thuyết sự đào thải tự nhiên trong
một bản thảo dầy tới ba mươi lăm trang. Từ năm 1838, tác phẩm Dân Số
(Population) của Thomas Malthus đã ảnh hưởng đến sự suy luận của
Darwin cũng như do những quan sát của riêng ông. Hai năm sau, ông sửa