HỦ BẠI, HỦ LẬU, HỦ HÓA
Ít lâu nay, nhiều người thấy những người duy trì đạo đức Đông
phương ăn nói từ tốn, không ngồi gác đít lên mép bàn và để chân lên ngang
mặt khách đối thoại, gọi họ là đồ hủ hóa.
Chữ hủ hóa không phải là một danh từ, nhưng là một động từ, có
nghĩa là trở thành hư hỏng, tồi tệ, xấu xa. Sở dĩ hủ hóa có nghĩa như vậy là
vì chữ hủ hóa nguyên dùng để nói về sự thông dâm với những người không
phải là vợ hay chồng mình. Hủ hóa là làm điều tồi bại, tội lỗi, do đó mới
dùng để nói rộng ra tất cả những công việc gì có tính cách hư hỏng, tồi tệ,
đại khái : « Anh hủ hóa đến bây giờ mà còn chủ trương hợp tác với thực
dân sao ? »
Hủ hóa hàm một ý nghĩa đương tốt mà trở thành tồi tệ ; chớ hủ bại, hủ
lậu thì có ý nghĩa là tồi tệ, xấu xa, không hợp thời đã lâu rồi. Hủ bại là
hỏng, là nát, là xấu (thí dụ phong tục tồi bại) còn hủ lậu thì chữ lậu hàm
một ý không hợp thời, thô lậu, không lịch sự, tinh tế.
Chữ « lậu » và chữ « bại » trong hủ lậu và hủ bại làm tăng ý nghĩa hẹp
hòi, tồi tệ lên. Riêng chữ « hủ » đã có ý nghĩa hẹp hòi và cũ kỹ rồi ; (ông
đồng hủ) hay hủ nho dùng để chỉ những nhà nho hẹp hòi cố chấp, hay hủ
tục, để chỉ những phong tục cũ kỹ, không hợp thời.