với nhau bởi sự dễ tổn thương có trong mỗi người. Bên dưới những lỗi
lầm của ta, luôn có hai động lực: nỗi sợ và khao khát tình yêu.
Để khuyên khích tình bằng hữu, Jesus thuyết phục các môn đồ
học cách nhìn vào những người trưởng thành như nhìn vào trẻ con.
Không gì có thể chuyển hóa cảm giác của chúng ta về nhân cách một
người nhanh bằng việc tưởng tượng anh ta hay cô ta là một đứa trẻ; từ
cách nhìn này, chúng ta có thể bộc lộ tốt hơn niềm cảm thông và sự
rộng lượng vốn chỉ dành cho trẻ con, mà ta có xu hướng mô tả là
những kẻ bướng bỉnh thay vì xấu xa, vô lễ thay cho ngạo mạn. Sự
giảm nhẹ ấy cũng tương tự những gì ta cảm thấy ở ai đó đang ngủ: với
đôi mắt khép, những đường nét thanh thản và không phòng vệ, một
người đang ngủ mời gọi một cái nhìn dịu dàng mà tự thân nó gần
giống như tình yêu - thực tế, ta cũng có thể bấn loạn đến dường nào
khi lặng nhìn một người lạ đang ngủ cạnh ta trên một chuyến tàu hay
trên máy bay. Khuôn mặt không đeo mặt nạ ấy dường gợi cho ta một
mối riêng tư, khiến ta hồ nghi những nền tảng của thái độ dửng dưng
của thời đại văn minh mà những mối quan hệ cộng đồng thông thường
dựa vào. Nhưng một Kitô hữu sẽ nói, không có cái gọi là một người
lạ; chỉ có ấn tượng về sự lạ lẫm, phát sinh từ việc không thể tri nhận
rằng những người khác có chung những nhu cầu và sự yếu kém như
mình. Không có gì cao quý và tràn đầy nhân văn hơn việc tri nhận
rằng, về cơ bản, theo bất cứ cách nào, chúng ta đều giống như tất thảy
những người khác.
3.
Ý niệm cho rằng những người khác về cơ bản không khó hiểu cũng
chẳng khó ưa mang theo những hàm ý quan trọng về mối quan tâm
của chúng ta với địa vị, khi mà khao khát đạt được sự phân biệt về mặt
xã hội chủ yếu được thôi thúc bởi nỗi sợ phải là - hoặc thậm chí bị
nghĩ là - người “bình thường”. Chúng ta càng xem tính bình thường là
đáng hổ thẹn, nông cạn, đê hèn, xấu xí, chúng ta càng khao khát đẩy