dân đã dừng làm việc ở trang trại hoặc công việc kinh doanh nhỏ của
gia đình họ, và bắt đầu đánh đổi trí thông minh hay sức lực để lấy
đồng lương người khác trả cho họ. Năm 1800, chỉ 20 phần trăm công
nhân Mỹ làm cho chủ thay vì tự làm riêng; đến năm 1900, con số này
tăng lên 50 phần trăm, và năm 2000 là 90 phần trăm. Các ông chủ
cũng trở nên lớn mạnh hơn: trong khi năm 1800, chưa đầy 1 phần trăm
lực lượng lao động Mỹ được thuê trong một cơ sở có từ 500 nhân viên
trở lên, đến năm 2000, con số này là 55 phần trăm.
Ở Anh, sự chuyển dịch từ một quốc gia của những nhà sản xuất
nông nghiệp nhỏ sang quốc gia của những người làm công ăn lương
được đẩy nhanh nhờ sự mất mát phần lớn đất đai sở hữu chung, một
tài nguyên vốn đã giúp người nghèo nông thôn sống sót nhờ tự trồng
cấy lương thực cho mình và giữ cho gia súc của họ - một con bò hay
con ngỗng - thoải mái chơi rong và gặm cỏ. Từ thế kỷ 18 về sau, phần
lớn những cánh đồng Anh “mở” được khép lại đằng sau những bức
tường và hàng rào bởi những tay điền chủ có thế lực. Từ năm 1724
đến 1815, hơn một triệu rưỡi mẫu đất được tư hữu hóa. Theo phân tích
của chủ nghĩa Marx truyền thống (vốn bị các sử gia chất vấn mạnh mẽ
nhưng dẫu sao vẫn có tính khám phá), phong trào rào đất báo hiệu sự
ra đời của giai cấp vô sản công nghiệp hiện đại, được định nghĩa như
một nhóm những người không thể tự cung tự cấp và vì thế không còn
lựa chọn nào ngoài việc bán mình cho một ông chủ với mức lương và
dưới những điều kiện thiên vị cho người chủ.
Thời nay, những nhọc nhằn của cảnh làm thuê mướn không chỉ
bao gồm nỗi băn khoăn về thời hạn hợp đồng lao động mà cả việc bị
hạ nhục trong nhiều hoạt động và va chạm trong công việc. Bởi vì hầu
hết doanh nghiệp được cấu thành giống như những kim tự tháp, với đế
rộng gồm những người làm công làm bệ đỡ cho một đỉnh hẹp gồm
một nhóm nhỏ những người quản lý, thế nên câu hỏi ai sẽ được đề bạt,
ai bị bỏ lại sau lưng, thường là một trong những mối lo âu đè nặng
nhất tại nơi làm việc, và giống như mọi mối lo âu khác, được nuôi