ứng cảm tính trước bất kỳ nỗ lực nào nhằm giảm lương hay bớt đi sự
hiện diện của họ. Họ nức nở trong buồng vệ sinh, họ uống rượu để vơi
đi nỗi sợ hãi về việc kém thành tựu và có thể chọn lấy cái chết nếu bị
sa thải.
Những phản ứng cảm tính như thế đánh động cho chúng ta về hai
đòi hỏi phân rẽ cùng tồn tại trong một đấu trường nơi địa vị được trao:
đòi hỏi về kinh tế - đề ra nhiệm vụ hàng đầu của doanh nghiệp là hiện
thực hóa lợi nhuận, và đòi hỏi về con người - khiến cho nhân viên
khao khát sự bảo đảm về tài chính, sự tôn trọng và hợp đồng lao động
dài hạn.
Trong khi những đòi hỏi này suốt thời gian dài đã đồng thời phát
sinh mà không có xung đột rõ ràng nào, tất cả những công nhân phụ
thuộc vào đồng lương ngoại trừ những kẻ nhẹ dạ nhất đều biết chắc
chắn rằng bất cứ lúc nào khi một công ty đứng trước việc phải lựa
chọn nghiêm túc giữa hai thứ thì đòi hỏi về kinh tế, theo đúng logic
của hệ thống thương mại, luôn chiến thắng.
Cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư bản - ít nhất là ở các nước
phát triển - có thể không còn dữ dội như thời của Marx. Song, mặc
cho điều kiện làm việc được cải thiện và luật lao động tiến bộ hơn,
công nhân trên thực tế vẫn chỉ là công cụ trong quá trình sản xuất, ở
đó hạnh phúc của riêng họ và sự thịnh vượng về kinh tế đều chỉ là may
rủi. Cho dù giữa ông chủ và công nhân có thể nảy sinh tình bằng hữu
tâm giao gì đi nữa, dù công nhân có bày tỏ thiện chí với người chủ và
dù họ đã cống hiến cho một công việc hay nhiệm vụ trong nhiều năm,
công nhân vẫn phải sống cùng với mối lo âu khi biết rằng địa vị của
họ không bao giờ được bảo đảm mà sẽ mãi phụ thuộc vào cả hiệu suất
làm việc của chính họ lẫn sức khỏe kinh tế của tổ chức mà họ làm việc
trong đó. Họ buộc phải chấp nhận rằng họ chỉ là một phương tiện cho
một mục đích và, dù cho họ có ham muốn đến đâu ở thang bậc cảm
xúc, họ không phải là đích đến cuối cùng của bản thân mình.