cấp cho người ốm, người già hay lũ trẻ thơ ngây. Đồng thời, dân cư bị
hút về những đô thị lớn hơn, nơi mối quan tâm đến hàng xóm láng
giềng bị không khí cạnh tranh, vội vã của thị trường giẫm đạp. Cộng
thêm vào nỗi khổ cực của tầng lớp dưới là việc Kitô giáo đã đánh mất
khả năng chi phối trí tưởng tượng của những người nắm đòn bẩy
quyền lực, và cùng với nó là mất mọi ảnh hưởng đến cách người nắm
quyền cư xử với người nghèo và cảm thức của họ về cộng đồng.
Trong Tuyên ngôn Cộng sản, Karl Marx, người cổ vũ mạnh mẽ
nhất cho luận đề này, mô tả thắng lợi của những lợi ích tài chính, trong
thứ tản văn mơ mộng và mang tính khải huyền: “Tầng lớp tư sản đã...
nhẫn tâm xé toạc những mối gắn kết phong kiến hỗn tạp trói buộc con
người với ‘những bề trên tự nhiên’ của họ, và để lại duy nhất mối quan
hệ giữa người với người mang tính tư lợi trần trụi, cái gọi là ‘tiền trao
cháo múc’. Nó đã nhấn chìm những niềm đê mê thượng giới của sự
nhiệt thành tôn giáo, lòng hào hiệp của các hiệp sĩ, tính đa cảm của gới
phàm phu, vào trong dòng nước lạnh giá của tính toán ích kỷ. Nó đã
chuyển hóa giá trị cá nhân thành giá trị đổi chác.”
Trong Groundwork of the Metaphysic of Morals (Đặt cơ sở cho
siêu hình học về đạo đức) (1785), Immanuel Kant đã biện luận rằng
việc cư xử có đạo đức với người khác đòi hỏi ta phải tôn trọng họ “vì
chính họ” và không dùng họ như một “phương tiện” cho việc làm giàu
hay vinh quang của chính mình. Với dẫn chiếu đến Kant, giờ đây
Marx buộc tội giới tư sản, và thứ tri thức mới về kinh tế học của họ, về
việc thực hành sự “trái đạo đức” trên diện rộng: “[Kinh tế học] chỉ coi
công nhân như là một con vật biết lao động - như một con thú chỉ
được thụ hưởng những nhu cầu thể xác tối thiểu,” ông viết trong Tuyên
ngôn. Ông tin rằng, tiền lương chi trả cho công nhân chỉ “giống như
dầu tra vào những bánh xe để giữ chúng quay... Mục đích thực thụ của
công việc không còn phục vụ con người nữa, mà là phục vụ đồng
tiền.”