sóng bởi sự vắng mặt của ánh trăng, rồi đến vách đá bao quanh thị trấn của
chúng tôi. Trời quá tối, tôi không chắc chắn nhưng tôi nghĩ tôi có thể hình
dung ra một thứ hình thù ghê gớm, đang rình rập ngay khúc ngoặt của vách
đá.
Nhìn xuống trại quân đội lần nữa, lí do tại sao họ là trì trệ như thế đã rõ.
Cha tôi xuất hiện từ lối cửa, theo sau là ba người đàn ông khác mà tôi nghĩ
là vô cùng quan trọng bởi hai trong ba người họ nhanh chân chạy đến Nhà
Quân Đội và người còn lại đi bước dài tới cổng, vừa ra lệnh vừa đi:
“Những cậu kia! Cảnh báo quân lính và bảo họ tập trung ngoài cổng
trước trong vòng hai phút nữa! Bốn cậu còn lại giữ nguyên vị trí, phải đảm
bảo không ai có thể đi qua đây đột nhập vào lâu đài. Tuyệt đối không được
cho ai vào trừ khi có sự cho phép của tôi hoặc Công tước. ĐÃ HIỂU
CHƯA?”
“VÂNG THƯA NGÀI!”, họ đồng thanh la lớn, đánh tay vào bên hông
và dính chặt hai gót chân lại với nhau.
“Tốt!” Người đàn ông kia hét. “Tất cả đều phải cẩn thận! Chúng không
phải là bọn rác rưởi bình thường chúng ta hay đối phó; chúng đều vô cùng
xảo trá và tàn bạo và không bao giờ chần chừ mà cắt cổ các cậu! Không tù
nhân; tất cả bọn hải tặc đều đáng chết, CÁC CẬU ĐÃ HIỂU CHƯA?”
Tôi nghe rõ câu trả lời của họ, đôi mắt dán chặt lên người cha, và bắt
được ánh mắt của ông khi ông quay lại và nhìn thẳng vào tôi.
Tôi biết chắc hiện giờ trông tôi như một thảm họa, đứng trên ban công
của đỉnh tháp cao nhất, xộc xệch trong chiếc váy ngủ phồng trắng với mái
tóc vàng óng ả bay bồng bềnh đằng sau lưng. Như một thiên thần đang đưa
mắt ngắm nhìn cuộc chiến tranh giữa Thiên Đàng và Địa Ngục, mà sắc đỏ
là ánh màu duy nhất phát ra từ thị trấn lúc này.