và Ông Chủ cũng tham gia đào xới đống gạch vụn. “Tôi nghe thấy tiếng đứa
bé”, người nào đó lại nói, “Tôi nghe thấy tiếng đứa bé”.
Ugwu quay người đi. Có một chiếc xăng đan rất hợp thời trang đang
nằm lăn lóc trên mặt đất, hắn nhặt chiếc dép lên và ngắm nghía cái quai da,
cái gót hình khối tam giác trước khi trở lại chỗ cũ. Hắn hình dung một cô gái
trẻ sang trọng đã đi đôi dép rồi tháo bỏ nó để chạy đến chỗ trú ẩn an toàn.
Hắn tự hỏi còn chiếc kia đâu rồi.
Khi Ông Chủ về nhà, Ugwu vẫn còn ngồi trên nền nhà trong phòng
khách, lưng dựa vào tường. Olanna đang khều khều miếng bánh trong cái
đĩa con. Nàng vẫn còn mặc áo cưới; cái áo nhà binh của Okeoma đang vắt
trên thành ghế bên cạnh. Khách khứa dần dần ra về, không ai nói năng gì
nhiều, nét mặt họ như bị ám ảnh bởi một vẻ tội lỗi, dường như họ xấu hổ vì
đã để cho trận oanh tạc phá vỡ đám cưới.
Ông Chủ tự rót cho mình một ly rượu dừa. “Em có nghe tin gì không?”
“Không”, Olanna trả lời.
“Quân ta đã mất hết những phần đất chiếm lại được ở giữa miền Tây,
và cuộc tiến quân vào Lagos đã không thành. Nigeria đã tuyên bố bây giờ là
chiến tranh chứ không phải là cảnh sát giữ an ninh trật tự nữa.” Chàng lắc
đầu. “Chúng ta bị phản bội và bị bỏ rơi.”
“Anh có muốn thử không?” Olanna hỏi. Cái bánh được đặt giữa bàn,
vẫn còn y nguyên, chỉ có một miếng nhỏ được nàng vừa mới cắt ra.
“Anh chưa muốn ăn lúc này.” Chàng uống nốt chỗ rượu dừa và rót
thêm ly nữa. “Chúng ta phải đào một cái hầm trú ẩn.” Giọng chàng thản
nhiên, làm như không phải cái chết vừa mới cận kề vài phút trước. Chàng
quay sang Ugwu. “Em có biết cái hầm trú ẩn ra làm sao không, bạn tốt?”
“Có, thưa ông”, Ugwu trả lời. “Giống như cái của Hitler.”
“Tốt, ừ, tôi cũng nghĩ thế.”
“Nhưng thưa ông, người ta nói hẩm trú ẩn là nấm mồ tập thể.” Ugwu
nói.