“tiếng nói”, về nghệ thuật sử dụng ngôn từ, về thuật hùng biện mà ông ta gọi
là bước khải hoàn của nhân loại. Bởi tiếng nói là phẩm giá của loài người,
và chỉ có nó mang lại nhân phẩm cho cuộc sống. Không phải chỉ có chủ
nghĩa nhân văn, mà cả lòng nhân đạo, phẩm giá của con người, lòng tôn
trọng con người và tôn trọng bản thân đều không thể tách rời khỏi tiếng nói,
khỏi văn học (“Thấy chưa”, sau đó Hans Castorp đắc thắng bảo anh họ, “cậu
thấy không, văn học rốt cục là những ngôn từ đẹp! Tớ biết ngay từ đầu
mà.”) và như thế chính trị cũng gắn liền với những điều đó, hoặc còn hơn
thế nữa: chính trị ra đời từ tổng hòa tất cả những điều này, là sự thống nhất
giữa nhân đạo và văn học, vì lời nói cao cả sản sinh ra hành động cao cả. “Ở
nước các ông”, Settembrini bảo, “hai trăm năm trước có một thi sĩ, một
người kể chuyện tuyệt vời, ông ta đặc biệt đề cao thư pháp, vì theo ý ông ta
nét chữ thể hiện phong cách. Lẽ ra ông ta cũng có thể đi xa hơn chút nữa mà
diễn giải rằng phong cách đẹp tất sẽ thể hiện ra bằng những hành vi cao
đẹp.” Nét chữ là nết người, viết đẹp cũng đã gần như là tư duy đẹp và không
mấy cách xa hành động đẹp. Tất cả luân lý và trau dồi đạo đức đều nảy sinh
từ tinh thần văn học, tinh thần đề cao danh dự con người, và như thế đồng
thời cũng là tinh thần nhân đạo và chính trị. Đúng thế, tất cả những điều này
chỉ là một, đều quy về một mối quyền lực và tư tưởng, mà ta có thể gọi
chung bằng một cái tên. Cái tên ấy là gì? Cái tên ấy được ghép lại từ những
âm vực quen thuộc, nhưng ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại của nó chắc hai anh em
họ chưa bao giờ lĩnh hội một cách thực sự, đó là: văn minh! Và trong lúc
uốn lưỡi để cho hai tiếng ấy trang trọng thoát ra từ đôi môi, Settembrini
vung cao bàn tay phải nhỏ nhắn xanh xao như một diễn giả hô khẩu hiệu.
Chàng trai trẻ Hans Castorp thấy tất cả cái mớ hổ lốn ấy rất đáng nghe,
thực ra không bắt buộc phải tiếp thu mà chỉ là thử nghe chơi vậy thôi, nhưng
theo chàng đó là cơ hội hiếm có để mở mang đầu óc. Và vì vậy chàng khăng
khăng cãi lại ý Joachim Ziemßen, anh chàng đang ngậm cây nhiệt kế trong
miệng nên chỉ có thể lúng búng phản biện, và sau đó còn bận đọc số điền
vào biểu đồ nhiệt độ nên cũng không mấy nhiệt tình tranh cãi về những quan
điểm cực đoan của Settembrini. Về phần Hans Castorp, như đã nói, đầy
thiện chí tiếp thu nên mở rộng cõi lòng suy xét: qua đó càng thấy rõ ưu thế