thần, có thể coi như một phút cầu nguyện thầm lặng vậy. Tôi đứng nhắm
mắt, tâm hồn an tịnh, dễ chịu đến mức hơi buồn ngủ. Nhưng ở đây có cái
mùi gì lạ thế?”
“Dưỡng khí”, ông cố vấn cung đình bảo. “Cái ông đánh hơi được trong
không khí là mùi ôxy. Sản phẩm của cơn giông nhân tạo trong khí quyển,
ông hiểu không… Mở mắt ra!” Đột nhiên ông ta ra lệnh. “Phép màu bắt
đầu.” Hans Castorp vội tuân theo.
Có tiếng một cái cần được gạt lên. Một cỗ động cơ nổ máy rú lên inh ỏi
và được một bàn tay điều chỉnh cho chạy đều đều. Sàn nhà rung bần bật.
Ngọn đèn đỏ lừ tỏa ánh sáng thành một vạch thẳng đứng, lặng lẽ nhấp nháy
đầy vẻ đe dọa. Đâu đó nháng lên một tia chớp. Và rất từ từ, với ánh sáng mờ
mờ như rọi qua một đám sương mù dày đặc, trong bóng tối dần dần hiện lên
một khung cửa sổ, mỗi lúc một rõ hơn. Ông cố vấn cung đình ngồi như cưỡi
ngựa trên chiếc ghế đẩu kê trước màn hình, hai đầu gối dang ra, tay nắm lại
chống xuống đùi, dí sát cái mũi như củ khoai tây vào tấm kính cho phép
người ta nhìn thấu lục phủ ngũ tạng một con người.
“Thấy không, ông bạn trẻ?” Ông ta hỏi… Hans Castorp nhoài người nhìn
qua vai ông ta, nghĩ thế nào chàng lại ngẩng lên quay đầu về phía có lẽ là
đôi mắt Joachim, đôi mắt dịu dàng buồn u uẩn như trong buổi khám bệnh
lần trước, ngần ngại hỏi:
“Cậu cho phép tớ?”
“Xin cứ tự nhiên”, câu trả lời rộng lượng của Joachim bay ra từ trong màn
đêm đen kịt. Và trong nhịp rung đều đều của mặt sàn, trong tiếng sấm rung
chớp giật của năng lượng được thả xổng, Hans Castorp lom khom cúi nhìn
qua ô cửa sổ sáng mờ, dòm vào bộ xương trống hoác của Joachim Ziemßen.
Xương mỏ ức nhập vào với xương sống thành một cột xù xì sẫm màu.
Những rẻ xương sườn phía trước ngực bị những rẻ sau lưng, mờ hơn, chồng
chéo cắt lên. Hai cái xương quai xanh nổi lên đưa sang hai bên, và trong lớp
vỏ thịt mờ mờ hiện rõ khớp vai nối với một khúc xương cánh tay trên. Trong
lồng ngực rất sáng, nhưng người ta vẫn có thể nhận ra các mạch máu với
những vệt thẫm màu và một mớ bùng nhùng tối đen.