quay lưng lại tất cả những người khác, ông ta hạ giọng nghiêm túc gần như
bí mật, lời lẽ rất thực tế không có một chút gì tính chất xã giao thông
thường, vì vậy cũng không thể vâng dạ phụ họa cho qua chuyện. Học trò
chẳng thể bảo thầy rằng: “Ông nói hay lắm!” Trước kia Hans Castorp đã đôi
lần sử dụng mánh khóe ấy để tìm cách khôi phục phần nào thế cân bằng giữa
người nói và người nghe; có điều chưa bao giờ con người nhân văn kia lên
tiếng dạy dỗ bằng giọng thấm thía như lần này, đến nỗi chàng không còn
cách nào khác hơn là cúi đầu nhận lỗi, tiu nghỉu như một cậu trò hư bị rót
vào tai bao nhiêu là đạo đức.
Nhìn nét mặt ông Settembrini người ta có thể thấy, mặc dù đã ngừng lời
nhưng những ý nghĩ vẫn hối hả quay vòng trong đầu óc ông. Và ông vẫn
đứng sát trước mặt Hans Castorp, gần đến nỗi chàng ta bất giác nghiêng
người né tránh, và cặp mắt đen đăm chiêu của ông lại có cái nhìn bất động
như xoáy vào mặt chàng trai trẻ.
“Ông đang đau khổ, ông kỹ sư!” Settembrini đột ngột lên tiếng tiếp tục.
“Ông đang khổ sở như một người lạc đường loanh quanh kiếm lối - ai mà
chẳng thấy điều đó? Nhưng cả khi đau khổ ông cũng phải giữ tư cách của
một người Âu châu, đừng có học đòi theo lối Đông phương, vì nhu nhược và
buông thả, khiếp sợ bệnh tật nên người xứ ấy tràn ngập những chốn như
chốn này… Thương cảm và nhẫn nhục là cách họ đương đầu với khổ đau.
Chúng ta, nói đúng ra là ông, không thể và không được phép làm như thế!
Lúc nãy tôi vừa đề cập đến lá thư mới nhận được… Ông xem đây… Hay tốt
hơn ông theo tôi! Ở đây không thể nào… Chúng ta tìm một chỗ nào kín đáo
hơn, kia, tới đằng kia. Tôi sẽ trình bày để ông rõ… Ông theo tôi!” Và vừa
quay đi ông ta vừa kéo Hans Castorp ra khỏi tiền sảnh, lôi chàng vào gian
phòng giải trí đầu tiên ngay cạnh cửa chính, một căn phòng nhỏ được bài trí
làm nơi viết thư hay đọc sách báo giờ này vắng tanh không có mạng nào.
Phòng khá ấm cúng với bốn vách tường ốp gỗ sồi dưới trần nhà cuốn vòm
sáng sủa, vài giá sách, một cái bàn chất đầy báo kê chính giữa phòng với
mấy chiếc ghế vây quanh, vài cái bục làm chỗ viết thư đứng kín đáo trong
những hốc cửa sổ cuốn vòm như tổ tò vò. Ông Settembrini bước lại bên một