Sau khi transistor được tìm ra, ai là người đầu tiên mua lại bằng phát
mình ? Đó là người khổng lồ tương lai: SONY của Nhật Bản. Tuy vậy, vào
năm 1948, nước Nhật vẫn còn gượng dậy rất khó khăn sau những tàn phá
của chiến tranh… Nhưng, ngay khi tin tức về phát minh transistor được
loan báo, các kỹ sư điện tử của MITI đã chú ý ngay đến mẫu tin mô tả phát
minh trên báo chí và lập tức bắt tay vào nghiên cứu các khả năng ứng dụng
nó trong công nghiệp. Nhưng do đâu họ lại dám mơ đến việc san bằng sự
chậm trễ so với Hoa Kỳ ? Đó là một điều dường như hoàn toàn không thể
được, một điều không tưởng. Ở Nhật Bản, các phòng thí nghiệm khi ấy
được chiếu sáng rất tồi, sưởi ấm cũng tồi và toàn bộ trang thiết bị chỉ là vài
dụng cụ đo cũ kỹ may mắn còn sót lại sau chiến tranh. Không có các tài liệu
khoa học để hướng dẫn các nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã ngủ lại
trong các phòng ngủ tập thể dành cho 12 hoặc 15 người. Nhiều tháng sau
đó, các kỹ sư Nhật Bản sáng giá nhất hãy còn uổng công “mổ xẻ” một vài
chiếc transistor và diode mà các đồng nghiệp Hoa Kỳ đã hào phóng đưa
tặng. Tinh thần người Nhật lúc ấy đã lại được nâng lên. Quá khứ đã ở sau
lưng họ và họ chỉ còn nghĩ đến việc xây dựng tương lai. Sau nhiều cố gắng
không kết quả, mãi đến năm 1953 những nghiên cứu của Nhật Bản về
transistor mới đạt được những kết quả xứng đáng.
Năm 1959 là năm của cuộc cách mạng lần thứ hai trong lĩnh vực điện tử:
sự ra đời của mạch tổng hợp. Các tác giả của phát minh này lại một lần nữa
là người Mỹ: Robert Noyce của Fairchild, và Jack Kilby của Texas
Instrument. Họ đã thành công trong việc gắn lên trên một bảng mạch nhiều
chi tiết điện tử, bán dẫn và chất dẫn điện tống hợp trên một mô đun duy
nhất. Mạch tổng hợp thể hiện những ưu điểm cần thiết của mạch dẫn và
mạch in: nó choán ít chỗ hơn vì người ta có thể đặt nhiều chi tiết hơn vào
một không gian cho sẵn, đồng thời vận hành tốt hơn và ít hao tổn năng
lượng hơn do sự liên lạc giữa các chi tiết của mạch là trực tiếp và chắc
chắn. Mạch tổng hợp đã làm giàu cho những người phát minh ra nó vì các
ứng dụng của nó trong công nghiệp quả là rất tiện lợi: điện thoại, máy thu
radio cực nhỏ, vô tuyến truyền hình, máy tính bỏ túi… tất cả đều phải nhờ
cậy vào mạch tổng hợp. Hồi đầu những năm 60, hố ngăn cách có vẻ như lại
càng được đào sâu hơn nữa giữa Hoa Kỳ với châu Âu và với Nhật Bản.
Công ty IBM lừng danh của Hoa Kỳ đã chế tạo thành công chiếc máy tính
điện tử thế hệ thứ hai.
Gần như cùng một lúc, một phát minh khác đã đem lại vinh quang cho
hãng Intel của Hoa Kỳ: bộ nhớ điện tử. Đó là một bộ nhớ bên trong có lưu
trữ thông tin dưới dạng các tín hiệu điện tử, trong khi chờ đợi lần xử lí tiếp
sau. Bộ nhớ đầu tiên này có công suất 1 kilobit. Người ta có thể lưu vào và
cất giữ trong đó đến 1.000 thông tin. Năm 1971, các nhà nghiên cứu Hoa
Kỳ đã có một phát hiện mới trong lĩnh vực điện tử: bộ vi xử lý. Đó là một