Trong những phần kế tiếp, chúng ta sẽ thấy ngành điện tử Nhật Bản đã từng bước
“cầm cương” thị trường thế giới ra sao (không riêng gì lĩnh vực bộ nhớ), đã đẩy lui đối
thủ Mỹ và khiến đối thủ này bị lúng túng như thế nào. Khi nào cuộc đấu vật kết thúc ?
Công nghiệp xe hơi: sự thống trị
Trên lĩnh vực đặc biệt có sức thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia này, sự
đột phá của Nhật Bản lại càng dữ dội hơn nữa. Cũng giống như công nghiệp điện tử,
công nghiệp xe hơi của Nhật Bản cũng xuất phát rất chậm trễ. Trên thực tế, nó đã khởi
đầu từ con số 0 hoặc gần như vậy. Tệ hơn nữa, vào cuối chiến tranh thế giới lần thứ
hai, nền công nghiệp cạnh tranh ở châu Âu đã trụ chân rất vững vàng mới một lịch sử
đầy hào khí (đối với một số hãng xe) từ đầu thế kỷ. Các cải tiến công nghệ chính đã
được khai thác trong các xưởng lắp ráp: hộp số đồng bộ, dẫn động bánh trước, các bộ
phận treo độc lập, thắng đĩa v.v… Hãng Ford ở Hoa Kỳ từ nhiều chục năm trước đó,
đã bắt đầu việc sản xuất dây chuyền. Kiểu xe Ford T nổi tiếng đã được sản xuất đến 15
triệu chiếc, kỷ lục thế giới tuyệt đối. Nước Mỹ thời hậu chiến đã lặn ngụp trong niềm
phấn khởi trước một sức phát triển kinh tế mạnh mẽ và chiếc xe Hoa Kỳ đã là biểu
tưởng cho sự thành công về mặt xã hội và cho sự tự do các nhân. Từng trăm ngàn
chiếc một, các xe Ford, Chrysler, General Motors đồ sộ đã tung hoàng dọc ngang khắp
mọi nẻo đường của các thành phố. Ở Pháp, Citroen là hãng đầu tiên đã sản xuất và bán
ra một loại xe hơi dẫn động bánh trước mang tên là Traction. Chiếc 2 CV, một kiểu xe
rất khiêm tốn lúc khởi thủy, đã được cải tiến để có thể chuyên chở với vận tốc 60 cây
số/giờ hai người cùng một giỏ khoai tây cũng đã bán chạy như tôm tươi. Hãng Renault
cũng thành công trong việc tung ra một chiếc xe bốn chỗ ngồi, được trang bị động cơ 4
CV (mã lực). Ở Tây Đức, Mercedes Benz tiếp tục đà phát triển của mình trước chiến
tranh và trở nên thịnh vượng. Cả Volkswagen cũng vậy. Các xe hơi của Ý vẫn khó ai
sánh kịp về dáng dấp và vẻ thanh lịch.
Làm sao mà nước Nhật lại có thể mơ ước đuổi kịp phương Tây ? MITI (lại một lần
nữa, MITI) đã chọn công nghiệp xe hơi làm lĩnh vực ưu tiên của công nghiệp đất
nước. Nhiều công ty đã được chọn để tung vào cuộc cạnh tranh. Đó là các công ty
Hino, Honda, Nissan, Toyota. Lập tức, người Nhật đã sôi nổi lao vào nghiên cứu công
nghệ của phương Tây. Đó là thời kỳ “học nghề” của họ. Thời kỳ này kéo dài cho đến
tận giữa những năm 60. Như chúng ta đã biết, từ những năm đầu sau chiến tranh,
Hino, hãng chế tạo xe tải và xe buýt của Nhật Bản, đã sản xuất dưới nhãn của xe
Renault 4 CV. Đầu tiên, Nhật Bản đã nhập xe thành phẩm. Sau đó, họ bắt đầu lắp ráp
tại chỗ. Các kỹ thuật gia Nhật Bản đã đến Pháp để học tập công nghệ của Pháp. Dần
dần, mặc dù thiếu máy móc, chiếc xe CV trở thành “made in Japan”. Trang thiết bị
thiếu thốn nghiêm trọng và người ta có thể thấy trong các phân xưởng lớn của Hino ở
Tachikawa, ngoại ô Tokyo, những người công nhân khệ nệ vác những tấm tôn ra đến
tận máy dập. Dù sao, kinh nghiệm cũng đã đem lại thành công. Hàng ngàn chiếc xe 4
CV đã dọc ngang khắp đường phố Tokyo. Người ta có thể thấy chúng ở khắp nơi.
Những chiếc taxi, hoặc là những chiếc xe Hoa Kỳ đồ sộ mà mỗi cuốc đi rất đắt, hoặc
là những chàng 4 CV kiên cường vốn chiếm được lòng ưu ái của người dân Tokyo.
Đây đó khắp nơi trên đất nước, các trạm bảo trì đã mở cửa. Chiếc 4 CV của bạn cần
bảo trì ư ? Hãy đưa nó đến một trong các trạm ấy và lập tức, cả một đội quân “công
nhân” nhiệt tình sẽ lao bổ vào chiếc xe của bạn để làm cho nó hoàn hảo trong vòng
một hai giờ sau.
Ngay từ đầu những năm 60, phía Nhật Bản đã kêu gọi Renault ký tiếp hợp đồng
giấy phép sản xuất vốn đã gần hết hạn. Người Nhật đã đề nghị người Pháp đầu tư vốn