Trên thực tế, các nhà chế tạo Nhật Bản đã tìm ra chìa khóa để phát triển cực nhanh
ở Hoa Kỳ. Thị trường Hoa Kỳ đã làm giàu cho họ. Và công nghiệp xe hơi đã nổi bật
lên như lĩnh vực xuất khẩu hàng đầu của Nhật Bản. Từ cuối những năm 60, người
Nhật đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường xe hơi cỡ nhỏ hoặc cỡ vừa. Công nghiệp
Hoa Kỳ không sản xuất những loại xe cỡ này và khách hàng Hoa Kỳ bị choáng váng
trước những cuộc khủng hoảng dầu hỏa và việc tăng vọt giá xăng dầu, đã bắt đầu quan
tâm đến xe hơi Nhật Bản vốn tiêu thụ ít nhiên liệu hơn rất nhiều so với các “gã khổng
lồ” Dodge, Cadillac, Pontiac v.v… Người Nhật chỉ còn việc là tràn vào những khoảng
trống. Điều mà họ đã làm và làm một cách không hề do dự.
Tristan d’Albis, giám đốc đối ngoại của tập đoàn PSA (Peugeot-Citroen) là là cánh
tay phải của chủ tịch Jacques Calvet đã trình bầy với tôi cách nhìn nhận của ông ta.
Theo ông, người Nhật đã lợi dụng tối đa những phán đoán sai lầm của chính phủ Mỹ
và các nhà chế tạo của các nước bên bờ Đại Tây Dương.
“Người Mỹ chưa bao giờ nghĩ, muốn, có khả năng và cũng chẳng biết cách tung
một sản phẩm xe hơi vào lĩnh vực của người châu Âu chúng ta, nghĩa là lĩnh vực xe
hơi cỡ nhỏ và trung bình. Lẽ ra, họ chỉ việc nhập khẩu các xe hơi do các chi nhánh
châu Âu của họ sản xuất sẵn. Nhưng họ chưa bao giờ làm điều đó và lĩnh vực này đã
bị chiếm lĩnh bởi xe hơi châu Âu. Sau đó, họ lại trải đường cho sự đột phá của Nhật
Bản. Họ đã thiếu tiếp thị, một sai lầm của các nhà chế tạo Hoa Kỳ mà châu Âu không
mắc phải, vì đó chính là một lĩnh vực mà chúng ta là người mạnh nhất. Người Nhật đã
bán gì trên thị trường Hoa Kỳ ? Chắc chắn không phải là xe hơi Nhật Bản mà là các xe
hơi theo thiết kế châu Âu… Bởi lẽ người Nhật chưa bao giờ phát minh ra điều gì cả.
Chúng ta chưa hề có bằng chứng là họ có thiết kế gì về xe hơi.
Đó chỉ là thiết kế của châu Âu được biến đổi cải tiến và điều cốt yếu là… rẻ hơn.
Chỉ cần bỏ vào xe các món điện tử mới lạ, phù hợp với đặc thù của thị trường Nhật
Bản. Lý luận công nghệ này là làm sao dễ bán. Và đây là những điều mà họ ghi ở phía
sau xe: “Trục cam đôi ở đầu” hoặc “16 xú-páp”. Ông sẽ nói với tôi rằng hiện nay ở
châu Âu người ta cũng làm hệt như vậy chứ gì ? Nhưng người Nhật đã nhanh tay hơn.
Hiển nhiên là họ chẳng có phát minh nào cả, nhưng họ luôn tung ra những kiểu xe mới
với một nhịp độ chóng mặt. Ở Hoa Kỳ, những của mới lạ ấy được ưa chuộng.
Điều thứ hai là các nhà chế tạo Hoa Kỳ đã chậm trễ về mặt công nghệ đến hàng
chục năm. Chúng tôi cho rằng xe hơi Hoa Kỳ đã bị lạc hậu 10 năm so với các kiểu xe
châu Âu. Điều này là do hệ thống của Hoa Kỳ, mà theo đó cứ ba tháng một lần, phải
đưa ra các con số chứng minh công ty đang trên đà tăng trưởng và phải trả cho các cổ
đông phần thu nhập bình thường mà họ trông đợi trong một thời gian ngắn. Hệ thống
này đã cản trở nghiêm trọng việc đầu tư dài hạn. Hồi đầu những năm 80, khi họ rủng
rỉnh có tiền bằng cách hạn chế các quota nhập khẩu xe hơi Nhật Bản vào thị trường
Mỹ thì số tiền ấy lại bị phung phí mất, bị tái phân phối cho các cổ đông hoặc mất trắng
vào các dự án điên rồ.
Điều thứ ba là việc quản lý tồi ở một số xí nghiệp Hoa Kỳ.
Mặc khác, các mối quan hệ trong lao động ở các xưởng xe hơi Hoa Kỳ cũng rất
thảm hại. Thật chẳng bù với không khí nghiêm túc ở các xưởng Nhật Bản. Về phần
chính phủ Hoa Kỳ, những sai lầm của họ không kém nghiêm trọng. Đặc biệt là họ đã
tin như đinh đóng cột là người Nhật cũng chỉ trở thành một bạn hàng kinh tế như các
bạn hàng khác. Họ đã hoàn toàn sai lầm ! Họ nghĩ rằng nước Nhật cũng sẽ tuân thủ