vời nhu cầu tạo việc làm ở Hoa Kỳ. Bởi vậy, họ đã lao vào cuộc đuổi bắt lợi nhuận
bằng cách thiết lập những phân xưởng mới và chọn lựa các địa điểm có mức lợi nhuận
cao nhất. Họ đã biết cách lợi dụng sự kiện là ở Hoa Kỳ, không có bất cứ một thứ nghĩa
vụ nào đối với nội dung sản xuất. Với các phân xưởng cắm chốt này, ở đó đôi khi các
chi tiết chính được chở thẳng từ Nhật Bản sang, họ đã nhanh chóng hoàn vốn đầu tư
ban đầu. Cuối cùng, họ đã chú ý đặt nhà máy ở những nơi chỉ có những cánh đồng
trồng bông hoặc lúa. Nhờ vậy, họ có thể chọn nguồn lao động mà họ muốn: những cô
cậu trẻ tuổi được đào tạo và đã thề trước Kinh Thánh rằng sẽ không bao giờ đình công.
Họ cũng đã thành công trong việc loại bỏ các nghiệp đoàn trong đa số các trung tâm
sản xuất của họ ở Hoa Kỳ. Cuối cùng, cũng cần phải nói rằng trên bình diện thương
mại, họ cũng đã thực hiện được một sự đột phá đáng kể. Trong khi việc quảng cáo của
Hoa Kỳ không được hoàn hảo lắm, họ đã biết cách trình bầy một sản phẩm hấp dẫn,
thú vị và mới mẻ. Chính vì vậy, mong ông đừng hiểu lầm: tôi không những thừa nhận
tài năng của họ mà còn dành sự ngưỡng phục lớn nhất đối với dân tộc Nhật Bản”.
Cần lưu ý rằng giai đoạn 1965-1980 đối với Nhật Bản cũng là một giai đoạn đánh
dấu nhiều thay đổi xã hội và thu nhập cá nhân tăng lên. Người Nhật không những đã
loại bỏ được sự nghèo khổ mà lại còn tiến tới một cuộc sống sung túc. Trong khi đó,
đa số các nước láng giềng châu Á của họ vẫn tiếp tục lâm nguy trong tình trạng kém
phát triển và thậm chí, như Trung Quốc, còn phải chịu đói kém. Dân số Nhật đã nhảy
từ 83 triệu người vào năm 1950 lên đến 100 triệu người vào cuối những năm 60 vào
120 triệu vào giữa những năm 80. Hiện tượng đô thị hóa cũng gia tăng: năm 1960,
64% người Nhật sống ở các thành phố. Năm 1975, tỷ lệ này tăng đến 76%. Ngày nay,
Tokyo đã trở thành một trong những thành phố đông dân nhất thế giới.
Số giờ lao động trong công nghiệp (Nhịp độ hàng năm)
Nhật Bản
Anh
Hoa Kỳ
CHLB Đức
Pháp
1975
2043
1923
1888
1678
1830
1978
2137
1955
1924
1719
1772
1981
2146
1910
1888
1656
1717
1982
2136
1915
1841
1626
1683
1983
2152
1938
1898
1613
1657
1984
2180
1941
1934
1652
1649
Nguồn: hội đồng cấu trúc công nghiệp Nhật Bản
Biểu hiện cho những biến động kinh tế Nhật Bản là nông nghiệp đã giảm sút và chỉ
còn chiếm 2,5% GNP năm 1980 so vói 5% năm 1970 và 9% năm 1960. Việc phổ cập
trung học cũng đạt những tiến bộ nhanh chóng: năm 1950, 43% thanh thiếu niên theo
học chương trình cấp 2 bắt buộc sau khi hoàn tất cấp 1; năm 1960 con số đó là 55%;
năm 1970: 82%; năm 1980: 94%. Năm 1975, Nhật Bản có khoảng 400 trường đại học
mà hai phần ba được thành lập trong vòng 20 năm trước đó. Thêm 100 trường đại học
nữa được mở cửa trong 10 năm kế tiếp. Chi tiêu ăn uống của mỗi gia đình đã giảm từ
44,5% vào năm 1955 xuống còn 27,8% vào năm 1980, tức gần bằng mức chi tiêu ở
Hoa Kỳ và châu Âu. GNP đầu người – một chỉ số thể hiện sự giàu có của một quốc gia