– đã tăng từ 208 đô la (1040 franc) năm 1955 lên hơn 1000 đô la (5000 franc) năm
1980 (đã tính đến yếu tố lạm phát). Năm 1987, mức thu nhập này lại đã đạt đến 19.600
đô la (98.000 frans). Lương bổng cũng tăng 156 lần theo giá trị cố định và 10 lần theo
giá trị thực tế (đã tính đến yếu tố lạm phát) từ năm 1847 đến năm 1984.
Rõ ràng đó chưa thể là sự sung túc. Việc xuất khẩu đã đem lại cho Nhật Bản những
nguồn tài chính khổng lồ, nhưng những tài sản ấy vẫn là sở hữu của xí nghiệp chứ
không phải của nhân viên. Ở Nhật Bản vẫn còn những người rất nghèo. Những người
làm công nhật hoặc làm theo mùa rất chật vật để nuôi sống cả gia đình. Tính trung
bình, giờ lao động ở Nhật Bản không chỉ dài mà còn tăng lên liên tục. Bởi vậy, trong
khi một lao động Pháp hoặc Đức được hưởng những ngày làm việc 8 giờ thì các đồng
nghiệp Nhật Bản phải làm việc đến 10 tiếng rưỡi đồng hồ. Đó là chưa kể thời gian đi,
về vốn không ngừng tăng lên ở các đô thị lớn của Nhật Bản. Hơn một triệu rưỡi người
Nhật nghèo khổ hoặc gặp khó khăn tiếp tục nhận những khoản trợ cấp. Năm 1951, số
người này là hai triệu.
Về nhà ở, dân cư đô thị sống trong các diện tích chật hẹp hơn ở phương Tây, mặc
dù không đến nỗi tệ hại như hồi trước chiến tranh. Tuy vậy, năm 1980, cũng có hơn
một phần ba dân số phải bị liên lụy bởi hệ thống thoát nước. Vẫn chưa có chế độ bảo
hiểm bệnh tật và bảo trợ xã hội. Đối với nhân viên của một xí nghiệp nhỏ hoặc vừa,
nếu trong nhà anh ta có một người bị bệnh thì đó là việc “tự ai nấy lo”. Trong các tổ
hợp lớn, các quỹ xã hội đang tăng lên. Sự ô nhiễm công nghiệp đã tàn phá đất nước.
Trường hợp bi thảm của làng Minamata (bị ô nhiễm chất độc mercure) đã được cả thế
giới biết đến. “Căn bệnh Minamata” được phát hiện và chẩn đoán lần đầu tiên vào năm
1956, là căn bệnh gây ra do ăn phải những con cá bị ngộ độc bởi chất thải công nghiệp
có chứa mercure được đổ ra biển. Căn bệnh này đã làm chết 1000 người và 2000
người khác được chính thức ghi nhận là mắc bệnh. Có ai đã quên hình ảnh bi thảm của
một bé trai Nhật bị mắc chứng đần độn trầm trọng từ lúc mới lọt lòng do người mẹ ăn
phải cá bị nhiễm độc ?
… Nhưng, nói chung, nước Nhật ngày nay đã trở thành một tấm gương phát triển
cho toàn thể châu Á. Trên phạm vi quốc tế, dư luận và nhất là các chủ xí nghiệp đã bắt
đầu nhận thức rõ sức mạnh đáng sợ của Nhật Bản trong những năm 90.
IV. Nước Nhật giàu và mạnh
Kiên nhẫn và thời gian có ích hơn là sức lực hay nóng giận.
La Fontaine, “Sư tử và chuột”.
Ngụ ngôn.
Trong những năm 60, khi Nhật Bản mới bắt đầu được nói tới, ở phương Tây người
ta thường nhìn đảo quốc châu Á nhỏ bé này bằng cái nhìn ân cần, lịch sự. Nhưng điều
che giấu bên trong là sự khinh khi đượm màu sắc phân biệt chủng tộc đối với cái mà ý-
thức tập thể, dù không nói ra, coi là “tên lùn da vàng” thất trận. Dù Nhật Bản đã xứng
đáng với những vòng nguyệt quế vinh quang đầu tiên, những kẻ xấu miệng luôn luôn
hoài nghi, đã hấp tấp gọi là “chàng khổng lồ chân đất sét”. Bởi vì – người ta huênh
hoang tuyên bố - chắc chắn là anh chàng “vô địch” dám đòi hỏi chỗ đứng dưới ánh
mặt trời bên cạnh những cường quốc của thế giới này sẽ phải sụp đổ trước biến động
kinh tế lớn đầu tiên. Không có dầu lửa, không có nguyên liệu, anh chàng nhỏ bé này
làm được gì ?