quyện với ghét, và bụi. Đố ai đếm nổi tất cả có bao nhiêu chỗ rách và
những chỗ rách ấy hình gì. Đố họa sĩ nào pha đúng được màu quần áo ấy -
nếu nó cởi những thứ ấy ra, đem treo lên cho công chúng đoán - đố ai dám
nói là đồ mặc của người.
Vậy thì, với bộ quần áo xơ mướp ấy, nó biến thành một cái bù nhìn.
Bù nhìn là cái khung có hai tay và hai chân làm bằng ống tre, thì nó cũng là
cái khung có hai tay và hai chân chẳng to hơn mấy. Bù nhìn có bộ mặt
chẳng thành hình, thì nó có bộ mặt cũng rúm ró, xấu xí như con ma dại.
Nhưng bù nhìn chỉ làm cho chim chóc phải sợ hãi, nhưng nó thì có thể
làm cho người ta không dám đến gần. Vì đến gần nó, trông thấy nước da
đen sạm, nhăn nheo của nó, người ta tưởng như đó là cái thây ma chưa tiêu
hết hiện về. Và cũng có mùi hôi thối xông lên. Và cũng có ruồi nhặng bám
vào để hút chất bẩn.
Thật thế, một đống rác, chưa đáng sợ, đáng tởm bằng nó. Vậy mà nó
phải đi hết chỗ này đến chỗ nọ, để kiếm cái nhét vào dạ dày.
Để nó sống.
Vì nó chưa chết.
Nó đã đi ăn mày. Nhưng ai cũng đuổi nó quầy quậy. Người ta quen
cho những người sạch sẽ, có nét mặt đáng thương, có quần áo còn dính đôi
chút mỹ thuật. Người ta chỉ bố thí cho kẻ ăn xin "hạng nhất". Còn nó, nó đi
đến đâu, người ta đóng cửa, người ta chửi, hoặc người ta mặc kệ cho chờ
chán thì phải cút.
Cho nên nó phải làm lấy mà ăn. Nó đến các chợ, vét những tí bánh còn
dính trên lá, và gặm những mẩu khoai vứt còng queo trên đất sạn. Nó lạy
van đứa ăn xin khác bớt cho nó chút canh cặn cơm thừa.