chúng lấp lánh khi sương tan. Đôi khi, không khí ẩm trong những đám mây
cô đọng lại thành các hạt bé tin hin nửa sương mù nửa mưa, chúng lơ lửng
hạ xuống chứ không phải rơi, tạo ra tiếng lộp độp rất khẽ giữa hàng triệu
chiếc lá nhọn.
Bên cạnh dòng sông có một lối đi nhỏ dẫn từ một ngôi làng - chỉ đông
hơn một tổ hợp nhà ở của những người chăn gia súc chút ít - dưới chân
thung lũng, đến một ngôi đền hầu như đã hoang tàn gần phía đầu của dòng
nước, một nơi có những ngọn cờ lụa bạc phếch tung bay trong luồng gió
không ngừng thổi tới từ rặng núi cao, nơi bánh lúa mạch và trà khô được các
dân làng ngoan đạo cúng tế. Một hiệu ứng kì lạ của ánh sáng, băng giá và
hơi nước bao lấy đỉnh thung lũng bằng những dải cầu vồng không bao giờ
tan.
Hang động nằm phía trên lối đi một chút. Nhiều năm trước, một người
sùng đạo đã sống ở đó, thiền định, nhịn ăn và cầu nguyện. Người ta tỏ lòng
tôn kính với nơi này vì kí ức gắn với ông. Nó sâu khoảng mười mét, sàn
khô: Hang ổ lí tưởng cho một con gấu hoặc một con sói, tuy vậy những sinh
vật duy nhất sống trong đó nhiều năm trời lại là chim chóc và dơi.
Nhưng hình hài đang co quắp bên trong lối vào, đôi mắt đen láo liên
quan sát mọi hướng, đôi tai thính nhạy vểnh lên, lại chẳng phải là chim hay
dơi. Ánh nắng phả mạnh xuống bộ lông vàng óng ả của nó, đôi tay khỉ xoay
một quả thông hết hướng này lại sang hướng kia, bẻ gãy từng nhánh bằng
những ngón tay thoăn thoắt rồi cào lấy quả hạch ngọt lịm bên trong.
Đằng sau nó, ngay bên trong vạch nắng chiếu tới, Phu nhân Coulter
đang đun nước trong một cái xoong nhỏ trên bếp dầu. Khi con linh thú khẽ
rên lên cảnh báo, bà liền ngước nhìn.
Bước theo lối mòn trong rừng là một cô gái nhỏ trong làng. Phu nhân
Coulter biết cô là ai: Đã vài ngày rồi Ama luôn mang đồ ăn tới cho bà. Lúc
mới đến, Phu nhân Coulter đã loan tin rộng rãi rằng bà là một người sùng
đạo đang thực hiện thiền định và cầu nguyện, kèm theo lời thề không bao
giờ nói chuyện với đàn ông. Ama là người duy nhất bà cho phép ghé qua.