dầu nhỏ xíu trong giá đỡ bên cạnh ông thì chẳng tỏa ra chút nhiệt nào.
Người thay phiên cho ông sẽ đến sau mười phút nữa, ông mong mỏi được
thưởng thức cốc chocolatl nóng hổi, lá thuốc, và trên hết là cái giường êm ái
của mình.
Ông không thể ngờ lại có tiếng nện thình thình lên cánh cửa nhỏ vào
lúc này.
Tuy nhiên, ông cũng rất cảnh giác nên đã mở lỗ nhòm, cùng lúc đó vặn
mở van để dầu chảy qua ngọn đèn chong tại trụ tường phía bên ngoài. Trong
ánh sáng rực rỡ nó phả ra, ông thấy ba dáng người đội mũ trùm mang theo
giữa họ một người thứ tư có hình dạng mờ ảo khó nhìn, người đó có vẻ đang
bị bệnh, hoặc bị thương.
Người đứng đầu kéo mũ trùm ra. Đó là một người mà ông lính gác biết
mặt, nhưng ông ta vẫn đọc mật khẩu rồi nói: “Chúng tôi tìm thấy ông ta ở hồ
lưu huỳnh. Thấy nói tên là Baruch. Ông ta có tin khẩn cho Ngài Asriel.”
Người lính gác tháo then cài cửa, con linh thú chó sục của ông run lên
khi ba bóng người khó nhọc khiêng cái gánh nặng của mình qua lối vào chật
hẹp. Con linh thú bất giác hú lên một tiếng khe khẽ rồi lại vội vàng im bặt,
khi người lính nhìn thấy rằng bóng hình đang được khiêng là một thiên thần,
bị thương: Một thiên thần cấp thấp với quyền năng hạn hẹp, nhưng dù gì vẫn
là một thiên thần.
“Đặt ông ta trong phòng canh gác đi,” người lính nói với họ, và trong
lúc họ làm vậy, ông quay tay cầm của chuông điện thoại rồi báo cáo chuyện
đang xảy ra cho sĩ quan trực.
Trên tầng thành luỹ cao nhất của pháo đài là một ngọn tháp bằng đá kim
cương: Chỉ một đợt cầu thang duy nhất dẫn tới tổ hợp phòng có cửa sổ nhìn
ra đủ bốn hướng bắc, nam, đông và tây. Căn phòng lớn nhất được trang bị
một cái bàn, nhiều ghế và rương đựng bản đồ, phòng kia là một cái giường
dã ngoại. Một phòng tắm nhỏ hoàn thiện tổ hợp này.
Ngài Asriel ngồi trong tòa tháp đá kim cương, đối diện với đội trưởng
trinh sát của mình qua một đống giấy tờ rải tung tóe. Một chiếc đèn dầu treo