nền kinh tế Mỹ, và trong khi thừa nhận tình cảm của công chúng đối với
việc tránh những dính líu quốc tế hao tiền tốn của, ông vẫn giữ thái độ im
lặng đối với các vấn đề chính sách đối ngoại. Cái im lặng này trong nhiều
trường hợp khiến mọi người lầm tưởng cảm giác thực của ông về sự phụ
thuộc lẫn nhau cơ bản của các dân tộc, và làm xa lánh một số người có cảm
tưởng rằng ông đã từ bỏ những quan điểm theo chủ nghĩa quốc tế của mình.
Những chiến lược vận động tranh cử tập trung vào những rủi ro của quốc
gia thay cho quốc tế của ông đã phát huy tác dụng và ông được bầu làm
tổng thống năm 1932. Theo quy luật tất yếu, nhiệm kỳ đầu tiên ông tập
trung vào chế ngự những vấn đề quốc nội khốc liệt của thời đại. Mặc dù có
lẽ đã tiên liệu tình trạng rối loạn toàn cầu sắp đến, nhưng Roosevelt không
thể hành động dựa vào những nghi ngờ của ông ngay cả khi chúng hiện
hữu.
Trong số những dấu hiệu cảnh báo sớm về việc chiến tranh sắp nổ ra là
cuộc xâm lăng của Nhật vào miền Bắc Trung Quốc. Bất kỳ ai tìm kiếm phát
súng cảnh báo của Chiến tranh thế giới 2 đều không cần để ý xa hơn việc
Nhật Bản chiếm Mãn Châu bằng vũ lực năm 1931. Dù Roosevelt, giống
như hầu hết các chính khách trên thế giới, chỉ trích Nhật Bản xâm lược và
sau đó sát nhập Mãn Châu, được người Nhật đổi tên thành Mãn Châu quốc,
nhưng ông không có ý định can dự vào cuộc tranh chấp xa xôi này. Tuy
nhiên ở đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông (1936 - 1940), những hoạt động của
Nhật Bản một lần nữa gây ra lo lắng. Năm 1937, khi chiến tranh Trung -
Nhật nổ ra, Roosevelt một lần nữa lên án những hoạt động quân sự của
Nhật Bản nhưng không cố gắng ngăn chặn sức mạnh quân sự của Thiên
Hoàng lúc này đã sẵn sàng giày xéo hầu hết những khu vực đông dân và
sản xuất của Trung Quốc. Sự bất hành động của Roosevelt có thể thấy phổ
biến trong tính thực dụng chính trị được điều khiển bởi những mối quan