tâm trong nước vì đương nhiên công chúng Mỹ không ủng hộ những hành
động quân sự của Mỹ nhằm bảo vệ Trung Quốc - dẫu rằng hầu hết người
Mỹ thông hiểu tình hình đều muốn Nhật bại trận. Thiện cảm của Roosevelt
rõ ràng còn dành cho người Trung Quốc. Nền tảng giáo dục mà ông sớm có
được, ở nhà và tại trường, (nền tảng ấy nhấn mạnh nhu cầu tôn trọng sự
toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng như lợi ích thương mại của Mỹ
trong khu vực) khát vọng thúc đẩy hoà bình quốc tế, và tất nhiên, mức độ
lo lắng về những gì Nhật Bản có thể làm tiếp theo - tất cả đã thuyết phục
ông giúp Trung Quốc nếu có thể, nhưng bằng những cách không gây đối
kháng với cả Nhật Bản lẫn những người theo chủ nghĩa biệt lập Mỹ.
Số đông các quốc gia khác cũng theo dõi cuộc xung đột Trung - Nhật,
nhưng các nước Tây Âu có những tài sản thuộc địa ở châu Á thì đặc biệt lo
lắng. Cả Anh và Pháp đều có lý do xác đáng để quan ngại. Đến đầu năm
1938, Hồng Kông thuộc Anh và Đông Dương thuộc Pháp là hai trong số
những điểm còn lại mà từ đó các phương tiện chiến tranh có thể được
chuyển vào Trung Quốc. Những nguồn tiếp tế này đặc biệt cần cho sự tồn
tại của chính quyền Tưởng Giới Thạch, và Nhật Bản nhận thức rõ thực tế
đó. Người Pháp đặc biệt lo ngại Nhật Bản có thể tấn công Bắc Kỳ, nơi
những trang thiết bị có tầm quan trọng sống còn được vận chuyển bằng
đường thuỷ đến Hải Phòng và từ đó theo đường sắt đến Vân Nam hoặc
Lạng Sơn rồi theo đường bộ vào trung tâm Trung Quốc.
Vì lý do đó, Toàn quyền Catroux đã "miễn cưỡng" cho phép vận chuyển
đạn được cho Tưởng Giới Thạch qua ngả Hải phòng "vì sợ Nhật trả đũa".
Đặc biệt, ông ta lo rằng Nhật Bản có thể ném bom đường sắt bằng những
máy bay xuất phát từ các hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi đảo Hải
Nam. Như đã lưu ý từ trước, Catroux nhận ra rằng mình đang "đơn thương