sức mạnh". Trong ý kiến của Roosevelt, "một hệ thống quyền lực tập thể vì
lợi ích của các nước đang nổi lên sẽ làm giảm quyền năng quân sự của Mỹ"
và "có thể cung cấp tài chính cả trợ giúp những dân tộc bị bóc lột lẫn một
hệ thống an ninh khả thi khu vực Thái Bình Dương cho tối thiểu hai mươi
năm". Roosevelt nhìn nhận Đông Dương như một yếu tố quan trọng đảm
bảo an ninh châu Á sau chiến tranh, vì thế điều duy nhất phù hợp là ông
cần trao cho thuộc địa đó vai trò chính trong kế hoạch uỷ trị. Trung Quốc
và Liên Xô, cả hai có vấn đề của riêng mình, hầu như chỉ biết phục tùng kế
hoạch của Mỹ.
Trên thực tế, những chỉ trích người Pháp của Joseph Stalin rõ ràng cũng
tương tự của Roosevelt. Tóm lại là "toàn bộ giai cấp thống trị Pháp đã mục
ruỗng đến lõi", và "đang tích cực tiếp tay cho kẻ thù của chúng ta". Stalin
đã xác định rằng "giao vào tay Pháp bất kỳ vị trí chiến lược nào sau chiến
tranh sẽ chẳng những không đúng đắn mà còn nguy hiểm nữa", và Đông
Dương thuộc Pháp rơi vào loại đó. Những nghi ngờ về ý định và mục đích
của kế hoạch uỷ trị chỉ làm tăng sự phản đối của Anh đối với các cuộc
tranh luận về vị thế của Đông Dương sau chiến tranh. Những phản đối
nóng nảy của Churchill tại Hội nghị Teheran năm 1943 đã bị Roosevelt đáp
trả gay gắt: "Xem đây, thưa ngài Winston", ông vặn lại, "về vấn đề Đông
Dương thuộc Pháp ngài đã thua với tỷ số phiếu".
Thậm chí sau những hội nghị năm 1943 tổ chức ở Cairo và Teheran,
Roosevelt tiếp tục nói về vấn đề chấm dứt ách thực dân của Pháp, đặc biệt
là ở Đông Dương và thuộc địa châu Phi Dakar, cả hai được xem là cần thiết
cho các căn cứ quân sự Mỹ nhằm bảo đảm an ninh thời hậu chiến. Và nước
Anh tiếp tục phản đối kế hoạch này một phần vì những ẩn ý về số phận của
Đế quốc Anh. Mặc dù Churchill nhất quyết là sự tan rã của đế quốc không
xảy ra trong nhiệm kỳ của ông, bằng việc ký kết Tuyên bố Đại Tây Dương