OSS VÀ HỒ CHÍ MINH - Trang 146

chung", Tan chỉ rõ, "không thể có được một sớm một chiều. Nó được hiểu
là một việc làm hợp pháp đưa bạn đến một xứ sở để bạn hiểu xứ đó và
người dân ở đó. Bạn biết ai có thể tin tưởng". Cả ba ông đều có việc làm
hợp pháp trong nước. Vì điều hành kinh doanh chính thức tại Việt Nam
trước khi chiến tranh bùng phát nên họ có thể tiếp tục sinh hoạt trong
những nhóm xã hội có cùng nghề nghiệp chính thức và đưa những người
bạn và đồng nghiệp gần gũi nhất từ trước Chiến tranh thế giới 2 vào mạng
lưới của mình.

Những mối quan hệ không đếm xuể này đã cung cấp cho họ cơ sở hỗ trợ
rộng lớn. Gordon báo cáo rằng ông "có thể ghé thăm nhóm những người
bạn Pháp trung thành - những người biết và tin tôi". Điệp viên "số 2" của
Gordon trong mạng lưới người Pháp là Helen Tong, thư ký của ông, một
người Hoa tỵ nạn đến từ Việt Nam. Chị gái của Helen là Janet cũng làm
việc tại văn phòng của GBT và mẹ họ, bà Tong, điều hành "hộ gia đình"
GBT. Cả ba là những nhân viên quý giá - như khả năng phiên dịch từ tiếng
Trung sang cả tiếng Anh và tiếng Pháp, kỹ năng văn phòng và tổ chức của
họ. "Số I" của Gordon hay điệp viên quan trọng nhất là Andre Lan, được
biết đến dưới mã số "nhân viên số 22", một người quốc tịch Pháp đã có
nhiều năm sống ở Đông Dương và đã chỉ đạo đưa nhiều người Pháp vào
mạng lưới. Sau này Lan đã được tặng thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội
tinh vì những thành tích của mình.

Bernard hoạt động tương đối đễ dàng trong giai đoạn trước khi Nhật đảo
chính. Thực vậy, những thường dân Mỹ từ Việt Nam trở về đầu năm 1943
báo cáo với các nhân viên OSS ở Trung Quốc rằng họ được đi lại "tự do"
trong thành phố và còn có thể kiếm được cả giấy phép ra ngoài thành phố
nữa. Những đầu mối liên lạc người Hoa của Tan cũng hết sức cần thiết. Khi
nhóm cần vào Sài Gòn một cách bí mật, họ đến gặp một nhân viên Texaco

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.