thực. Người Pháp trở thành một dạng nô lệ được tôn trọng. Người dân
Đông Dương phải chịu cảnh một cổ hai tròng - làm nô lệ không chỉ cho
người Nhật mà còn là nô lệ của nô lệ - người Pháp".
Song tình hình này còn tuỳ thuộc vào những cách hiểu khác nhau. Tuy
nhiên, Pháp tiếp tục coi người Việt không hơn những thần dân thuộc địa.
Mặt khác, chí ít là về mặt lý thuyết, Nhật cũng đem lại cho người Việt đôi
chút hy vọng.
Có thể nêu ra vài ví dụ trong đó thật thể hiện sự đối xử ưu đãi đối với
những đồng bào châu Á của mình. Thật thú vị, những người lính Việt Nam
chiến đấu trong hàng ngũ Pháp bị bắt tại Lạng Sơn và Đồng Đăng đã ngạc
nhiên với cách người thật phân biệt đối xử họ và các cấp chỉ huy người
Pháp của họ. Trong một báo cáo năm 1945 của nhóm Cộng sản An Nam
(được biết đến nhiều hơn là Việt Minh) gửi cho OSS, tác giả bình luận rằng
"Trong vụ Lạng Sơn, lính Nhật đối xử tử tế với các tù binh Đông Dương,
trong khi đó lại bắt binh lính và sĩ quan Pháp bỏ giày để làm những công
việc nặng nhọc. Tất nhiên, tình hình đó chỉ diễn ra một thời gian ngắn;
trong vòng một tháng tất cả tù binh đều được phóng thích và các đồn binh
đều được trả lại cho Pháp. Nhưng thật vẫn tiếp tục quảng bá ý tưởng cùng
chung "giống nòi" Á châu. Mô hình "toàn Á" bề ngoài muốn nói đến sự
tham gia của Việt Nam vào GEACPS dưới khẩu hiệu "châu Á vì người
châu Á". Hầu hết người Việt, và thực ra là hầu hết cộng đồng quốc tế, xem
cả GEACPS và khái niệm "châu Á vì người châu Á" với thái độ hoài nghi
và ngờ vực. GEACPS, có lẽ gọi là Khối Thịnh vượng Đại Nhật Bản thì
thích hợp hơn bởi mục đích của nó là hợp tác kinh tế giữa các nước châu Á
vì những lợi ích hàng đầu của Nhật.