của kế hoạch uỷ trị chỉ làm tăng sự phản đối của Anh đối với các cuộc
tranh luận về vị thế của Đông Dương sau chiến tranh. Những phản đối
nóng nảy của Churchill tại Hội nghị Teheran năm 1943 đã bị Roosevelt đáp
trả gay gắt: "Xem đây, thưa ngài Winston", ông vặn lại, "về vấn đề Đông
Dương thuộc Pháp ngài đã thua với tỷ số phiếu".
Thậm chí sau những hội nghị năm 1943 tổ chức ở Cairo và Teheran,
Roosevelt tiếp tục nói về vấn đề chấm dứt ách thực dân của Pháp, đặc biệt
là ở Đông Dương và thuộc địa châu Phi Dakar, cả hai được xem là cần thiết
cho các căn cứ quân sự Mỹ nhằm bảo đảm an ninh thời hậu chiến. Và nước
Anh tiếp tục phản đối kế hoạch này một phần vì những ẩn ý về số phận của
Đế quốc Anh. Mặc dù Churchill nhất quyết là sự tan rã của đế quốc không
xảy ra trong nhiệm kỳ của ông, bằng việc ký kết Tuyên bố Đại Tây Dương
bên cạnh Roosevelt tháng 8 năm 1941, ông đã mở toang cửa tranh luận về ý
nghĩa của sự giải phóng, tự quyết và những thuật ngữ này có thể ứng với ai.
Thực vậy, điểm Ba của Tuyên bố đã gây ra nhiều bất ổn trong người Pháp
và dem lại hy vọng cho những người theo phong trào đòi độc lập trên toàn
thế giới, trong đó có người Việt Nam. Điểm này ghi rõ: "Các bên tôn trọng
quyền của tất cả các dân tọc lựa chọn hình thái chính phủ tương lai của
mình, và hy vọng chứng kiến các quyền tối thượng và tự quản được khôi
phục cho tất cả những ai đã bị tước đoạt các quyền đó bằng vũ lực".
Trong bối cảnh Chiến tranh thế giới 2, tuyên bố này có thể được hiểu theo
nhiều cách khác nhau. Một mặt, cách diễn đạt bảo thủ ám chỉ khát vọng chỉ
đối với sự giải phóng các lãnh thổ bị Đức Quốc xã và Nhật Bản chiếm
đóng. Mặt khác, cách diến đạt thoáng hơn ám chỉ một cam kết cáo chung
toàn bộ chủ nghĩa thực dân, bênh vực cho những dân tộc phụ thuộc đã thực
sự bị tước đoạt các quyền của mình. Cả Roosevelt và Churchill đều hy
vọng rằng những mục tiêu khái quát được thể hiện trong Tuyên bố Đại Tây