bộ tin tức tình báo" và "rất có thể dưới trướng đại tá Donovan" có thể "trở
nên cực kỳ bất lợi, nếu không nói là tai hoạ", phản ánh quan điểm của FBI
và những nhân vật khác, những kẻ không muốn thấy quyền kiểm soát thông
tin của mình bị thu nhỏ. Vì mặc dù sự phối hợp thông tin có thể có lợi cho
tất cả, nhưng "đố kỵ và cạnh tranh, người Mỹ đã thử nghiệm giả thuyết
kiến thức là sức mạnh, song khi kiến thức bị chia sẻ thì quyền lực cũng
giảm bớt". Tuy thế, nhận thức được nhu cầu sửa chữa sự thiếu phối hợp
thông tin của mình, ngày 17 tháng 1 năm 1941 Roosevelt đã chỉ thị thành
lập Cơ quan phối hợp Tin tức tình báo nhằm thông báo một cách hiệu quả
cho ông "về những sự kiện quốc tế có thể đe doạ an ninh, hay chí ít là
những mối quan tâm của nước ngoài" về Mỹ.
Trước sự kinh ngạc của Bộ Chiến tranh và những kẻ lo sợ quyền lực của
mình sẽ giảm bớt, Roosevelt chỉ định Donovan làm người điều phối thông
tin.
Khi mới được thành lập, cơ quan của Donovan, được biết đến với tên gọi
chung là COI(9), tập hợp tám đơn vị tình báo riêng biệt trong chính phủ
Mỹ: Quân đội G-2, Cơ quan Tình báo Hải quân (ONI), FBI trong Bộ Tư
pháp, Tình báo Đối nội thuộc Bộ ngoại giao, Thanh tra Hải quan Bộ
Thương mại, Cơ quan Tình báo Bộ Tài chính, Thanh tra Di dân và nhập
tịch, Bộ Lao động và Tình báo của Uỷ ban Thông tin Quốc gia. Những vấn
đề nảy sinh với một hệ thống như vậy là hiển nhiên: cho dù một số lượng
lớn tài liệu thô có thể được tập trung, nhưng đó là chủ đề cho ít nhất tám
cách diễn giải khác nhau. Thậm chí ngay cả khi xét đến những ý định tốt
nhất, thì thời gian và nỗ lực cần thiết để phân loại, danh giá và chuyển
thông tin cũng thường cản trở việc chia sẻ thông tin được phát hiện giữa
các đơn vị với nhau. Trong trường hợp tồi tệ nhất, việc bảo vệ mối quan
tâm của riêng từng đơn vị thường ngăn chặn liên ngành chia sẻ và mặc cho