OSS VÀ HỒ CHÍ MINH - Trang 87

(MO) có nhiệm vụ tạo ra và phân phát sản phẩm tuyên truyền "đen", tức là
loại hình tuyên truyền được làm giả một cách tinh vi. Đến khi OSS bị bãi
bỏ ngày 1 tháng 10 năm 1945, cơ quan này đã phát triển được "hơn 40 chi
nhánh và đơn vị với một đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng lên
đến gần 13.000 người"
.

Suốt chiến tranh thế giới 2, những nam nữ thành viên OSS có nhiều
phương thức hoạt động - từ chiến đấu cùng Kháng chiến Pháp phía sau
phòng tuyến dịch đến chuẩn bị những báo cáo thống kê về dân số Burma -
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các sĩ quan được OSS lựa chọn và
những ai không được Donovan hay nhân viên của ông tuyển mộ thì phải
xin được phục vụ. "Hầu hết những bổ nhiệm vào chức vụ cao nhất trong
OSS nghiêng về phía các ứng viên Wasp(12), đặc biệt là những người tốt
nghiệp nhóm các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ", nhà sử
học Lawrence Mcdonalđ viết, "kích thích những người chỉ trích giễu cợt
rằng những chữ viết tắt tên của cơ quan này là "Ôi, xã hội quá ta"(13)
"Ôi, trưởng giả học làm sang"(14). Giành được một vị trí trong OSS - đặc
biệt là tại Chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích - đối với một số người là
ngon lành để phục vụ đất nước mà không phải dấn thân vào nguy hiểm chết
người. Barry Katz viết:

Chí nhánh Nghiên cứu và Phân tích đã huy động một tiểu đoàn đáng nể
toàn những học giả tiên tiến - những người có thiên hướng sử dụng tưởng
tượng, hiểu chiến tranh trong các thuật ngữ chính trị và muốn góp sức.
Washington thời chiến không phảí là dưới thời Pericles, Florence dưới thời
Medici hay Weimar của Goethe, nhưng ở đây vẫn còn cái gì đó truyền cảm
hứng về nó, cho dù động cơ của những cá nhân riêng biệt thường thực
dụng hơn: chuyển đến OSS, nơi được biết đến trong quân đội như những uỷ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.