với tôi. Tôi là một điệp viên đơn độc, một Anh hùng cô đơn, một người Việt
Nam cô đơn”.
Thoạt đầu, tôi không thực sự hiểu điều Ẩn nói. Ông nổi tiếng, là một sĩ
quan tình báo nhiều công trạng và cuộc đời ông là một huyền thoại. Mãi về
sau tôi mới hoàn toàn nắm bắt được thực tế là Ẩn đã sống giữa những người
Mỹ trong gần hai mươi năm. Thời đó ông biết về người Mỹ nhiều hơn bất
cứ người Việt nào trên toàn thế giới. Dù họ là kẻ thù của đất nước ông, Ẩn
vẫn không thù ghét họ ở khía cạnh con người, ông tin rằng chính phủ Mỹ đã
bị định hướng sai trong sự can thiệp của họ và ngay khi sự can thiệp đó
chấm dứt, Ẩn tin rằng sẽ là rất tự nhiên khi nối lại quan hệ thân thiết với
những con người vốn đã rất tốt bụng đối với ông trong thời gian ông ở Mỹ
và lúc làm phóng viên cho Time. Tha thứ và hòa giải là ý niệm ngây thơ của
Ẩn vào năm 1975. Phải mất một thập kỷ nữa thì đất nước của ông mới thấm
thía được điều này.
Vấn đề căn bản là Ẩn coi trọng tình bạn hơn ý thức hệ. Trong sâu thẳm
lòng mình, ông luôn tận lực vì đất nước và bạn bè. Đó là một sự cân bằng
mà rất ít người, nếu có, có thể thành công. Làm sao người khác có thể hiểu
được những hiểm nguy mà Ẩn tự rước vào cho bản thân và sứ mệnh của
ông khi tìm cách cứu anh bạn Robert Sam Anson hoặc gia đình Brandes hay
giúp các phóng viên đồng nghiệp tránh khỏi những hiểm nguy không cần
thiết? Đối với Phạm Xuân Ẩn, ý nghĩa đích thực của cuộc sống nằm ở hai
từ tình bạn và sự tha thứ.
Tôi không bao giờ quên được cái ngày mà Ẩn lần đầu tiên thổ lộ với
tôi giấc mơ của ông cho đất nước Việt Nam, bằng cách diễn dịch lời của
Tống thống Mỹ Abraham Lincoln về hàn gắn và hòa giải trong diễn văn
nhậm chức ngày 4 tháng 3 năm 1865. Ngày ấy, Lincoln đã nói về sự tha thứ
từ hai phía giữa những người anh em miền Bắc và miền Nam trong cuộc
Nội chiến Mỹ. Ẩn trích dẫn không thật chính xác, nhưng gần giống để làm
sáng tỏ. “Không ác tâm với bất cứ ai; luôn nhân ái với mọi người; và kiên
định trong lẽ phải, khi Chúa cho chúng ta nhận ra lẽ phải, hãy tranh đấu để
hoàn thành sứ mạng được giao; hàn gắn vết thương của dân tộc, chăm sóc
các chiến sĩ đã dấn thân vào cuộc chiến, và những người vợ góa, những trẻ