(2) Tim Bowden, One Crowded Hour: Neiỉ Davis, Combat
Cameraman 1934-1985 (Sydney, Ausưalia: Nhà xuất bản Collins, 1987),
trang 347; Tiziano Terzani, Giai Phong! The Fall and Liberation of Saigon
(New York: Nhà xuất bản St. Martin's, 1976).
(3) Neil Davis và Robert Shaplen biên tập cho tạp chí New Yorker, Tài
liệu của Shaplen. Xem ghi chú và bản thảo, Letter from Saigon, Neil Davis
tại Hộc 95, Ghi chú: Tệp 30, Tài liệu của Shaplen.
(4) “The Quiet Vietnamese: Journalist and Spy Phạm Xuân Ẩn Led a
Life of Ambiguity”.
(5) Nguyễn Xuân Phong, Hope and Vanquished Reality (Philadelphia:
Nhà xuất bản Xlibris, 2001), trang 152-7.
(6) Sách đã dẫn. Tác giả phỏng vấn Nguyễn Xuân Phong.
(7) Sau chiến tranh, việc ông Trần Văn Trà ca ngợi các lực lượng B-2
ở miền Nam, cũng như sự đánh giá chân thực và phê phán đối với các
thượng cấp Cộng sản, đã khiến ông bị chính phủ trừng phạt, ông phải chịu
một
loại
hình
thức
quản
thúc
trong
thời
gian
ngắn.
http://lists.village.virginia.edu/sixties/HTML_docs/Texts/Narrative/Ott_Tra
n_Van_Tra.html.
(8) Hope and Vanquished Reality, trang 259.
(9) Dragon Ascending, trang 194. Cao Giao thường đùa rằng ông biết
mọi nhà tù từ phía bên trong “và đã hy sinh một đời để đấu tranh cho đất
nước Việt Nam vô phúc này”. Trang 196.
(10) Oliver Todd, Cruel April (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton,
1987), 253. Vượng, Cao Giao và Ẩn thường được các phóng viên Sài Gòn
gọi là “Ba người lính ngự lâm”, Todd viết, trang 25.
(11) Bitter Victory, trang 11.
(12) Phỏng vấn Germaine Lộc Swanson, Bùi Diêm và Dick Swanson.
(13) Hộc 62, Tệp 9, Tài liệu của Sheehan.
(14) Đây là từ của Ẩn; ông cũng nói với Sheehan, Tệp “After the War
Was Over”, Tài liệu của Sheehan.
(15) Năm 2006, Ẩn ăn tối với Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh.