độ chính xác hoàn hảo, nhưng khi tôi hô lên “Xong!” tôi nghe Mary cũng
đáp lại đúng tiếng ấy. Cả hai làm xong gần như cùng lúc.
Cuộc thi thố ấy chẳng thể phân thắng bại, song bọn tôi tăng tốc độ làm
việc gấp đôi, vì Mary thuyết phục bố cô ấy rằng hai chiếc máy sẽ làm tăng
khả năng thu hút đối với phòng trưng bày hơn. “Giống như khách hàng
bước vào cửa hàng thời trang Gap vậy”, cô ấy giải thích. “Người ta chẳng
bao giờ bày ra chỉ một chiếc áo sơ mi. Luôn có một cái bàn bày sẵn sáu hay
bảy cái. Sản phẩm trưng bày theo nhóm bao giờ cũng bắt mắt hơn.”
Tôi không tin kiểu lập luận của cô ấy lắm - lẽ trước tiên, áo sơ mi có
nhiều màu khác nhau - nhưng Zelinsky có vẻ cũng muốn thử. “Nó nằm
trong thùng thì cũng chẳng ích gì.” Ông ấy nhún vai. “Ta đã mua mấy cái
máy chết tiệt này ba tháng rồi, và đến lúc phải tống bớt một cái đi. Nào là
‘Chiếc máy tính gia đình nổi tiếng nhất nước Mỹ’.”
Ông ấy liếc nhìn tôi như thể tôi có dính líu vậy, hệt như tôi đã tự chế ra
cái máy 64 và rồi buộc ông trữ vài cái ấy.
“Cháu xin lỗi”, tôi nói với ông.
Ánh nhìn của ông trông đáng sợ hơn, chân mày nhướng nhíu cao hơn.
“Sao cậu xin lỗi mãi thế?”
“Bố à, bọn con sắp đến hạn nộp rồi”, Mary nói.
“Ta muốn nó về trước bảy giờ”, Zelinsky nói. “Con còn bài tập nữa.”
Bọn tôi dành ba giờ nữa để thử những bản mã và đọc chúng to lên từ
quyển Học ngôn ngữ máy trong 30 ngày. Băng cát-sét chuyển từ nhạc của
Howard Jones và Bruce Hornsby sang Marshall Crenshaw. Công việc được
phân chia như sau: Mary sẽ đọc to đoạn khó, tôi không hiểu được, rồi cô ấy
sẽ giải thích lại cách thức sử dụng ngôn ngữ riêng của cô ấy cho đến khi
mạch lạc đối với cả hai.
Điều này xảy ra khá thường xuyên, tôi thấy ngại lắm. Tôi biết Mary sẽ
học nhanh hơn nếu không có tôi, chừng như “trí thông minh có hạn” của tôi
(hay bất cứ cái gì mà thầy Hibble đã đề cập) đã làm chậm lại tiến trình của
bọn tôi. Tôi tựa lưng vào ghế, cắn móng tay, thở dài và nhìn đồng hồ.