ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER
105
tro vào chùa ở cạnh Đức Phật. Do đó họ không lo cho bản thân hiện
tại, mà chỉ lo mọi việc để có tiền quyên góp công đức xây chùa cho
thật trang nghiêm và nhờ quý thầy cúng cầu an cho họ được bình
an hạnh phúc, cũng như cầu siêu cho cửu huyền thất tổ của họ được
vãng sinh về Đức Phật.
Đạo đức Phật giáo còn góp phần giáo dục mỗi người thực hiện
trách nhiệm của cá nhân của chính mình về những hành vi thiện ác.
Nhơ bẩn hay trong sạch đều do mình làm ra mà thôi. Trong kinh
Pháp cú Đức Phật dạy rằng: “Làm dữ ở nơi ta, mà ô nhiễm cũng bởi
nơi ta, mà thanh tịnh cũng bởi nơi ta, chứ không ai có thể làm cho ai
thanh tịnh được”.
24
Như vậy mỗi con người hiện hữu trên cuộc đời
này, đều là hòn đảo của chính mình, đều có thể phấn đấu, rèn luyện
phẩm hạnh của mình để vượt qua mọi khổ đau. Ngài nói với các đệ
tử: “Này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa
một ai khác”.
25
2.4. Đạo đức Phật giáo giáo dục lòng từ, bi, hỷ, xả cho con người
Tư tưởng đạo đức Phật giáo nói chung và Phật giáo Nam tông
Khmer nói riêng được thể hiện ở “Tứ vô lượng tâm”. Tứ vô lượng
tâm là nền tảng đạo đức của Phật giáo. Nó bao gồm: Từ (Maitri),
Bi (Karuna), Hỷ (Mudita), Xả (Upeksha). Tứ vô lượng tâm dùng
để đối trị với tham, sân, si hay bảy ô nhiễm trong cuộc sống đời
thường: tham dục, sân hận, mê muội, tà kiến, nghi ngờ, kiêu ngạo,
keo kiệt. Đồng thời nó cũng cứu khổ chính bản thân mỗi con người.
Tâm từ rộng lớn chính là phép để đối trị với sân hận mênh mông.
Do đó Đức Phật dạy “không thể lấy thù oán mà diệt sân hận, chỉ có
tâm từ mới dập tắt được lòng sân hận”.
26
Tâm bi chính là lòng trắc ẩn cao thượng hướng về mọi người,
không phân biệt nam nữ, sang hèn, chủng tộc… Đồng thời nó cũng
24. Thích Thiện Siêu dịch (1993), Kinh Pháp cú, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. HCM,
tr. 42.
25. Thích Minh Châu (1993), Kinh Tương ưng bộ III, VNCPHVN.
26. Narada Thera (1991), Đức Phật và Phật pháp, bản dịch của Phan Kim Khánh, Thành hội Phật
giáo TP. HCM.